[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn, hạn chế dịch bệnh, giảm được các yếu tố gây ô nhiễm môi trường là những đóng góp quan trọng của công nghệ biofloc trong việc tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản hiện nay. Không những thế, công nghệ này còn đảm bảo tạo ra nguồn thực phẩm an toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng nước và giảm sự ảnh hưởng của những diễn biến thời tiết cực đoan.
Toàn cảnh phiên hội thảo với chủ đề “Công nghệ Biofloc trong nuôi trồng thủy sản”
Đó là thông điệp chính trong phiên hội thảo chủ đề: “Công nghệ Biofloc trong nuôi trồng thủy sản” do Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam phối hợp với trường Đại học Chiang Mai (Thái Lan) tổ chức, được tài trợ bởi “Lancang – Mekong Cooperation Special Fund, China” và “Program Management Unit for Competitiveness (PMUC), Thailand”, nhằm giúp ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) vùng Đồng bằng sông Mekong phát triển theo hướng bền vững.
Tại Hội thảo, PGS. TS Đoàn Văn Hiến, Đại học Chiang Mai, Thái Lan đã có những chia sẻ về ứng dụng công nghệ biofloc trong NTTS. Theo PGS. TS Đoàn Văn Hiến, công nghệ biofloc là quá trình tự Nitrat hóa trong ao nuôi thủy sản không cần thay nước. Biofloc tập hợp một khối các chất hữu cơ lơ lửng trong nước như các loại tảo đơn bào, tảo đa bào, phân, thức ăn dư thừa, xác vi sinh vật, vi khuẩn và kể cả động vật không xương sống,… Biofloc có khả năng đồng hóa các loại chất thải hữu cơ chuyển thành sinh khối của vi khuẩn trong thời gian rất ngắn, nhằm cải thiện môi trường nước mà không cần ánh sáng như các loại tảo. Biofloc có hàm lượng chất dinh dưỡng cao và trở thành loại thức ăn cho tôm, cá. Biofloc chính là nguồn vitamin và khoáng chất rất tốt cho động vật thủy sản. Cùng với đó, PGS.TS Đoàn Văn Hiến cũng đã giới thiệu về một số mô hình nuôi trồng thủy sản thâm canh ứng dụng công nghệ biofloc tại một số quốc gia như Lào, Thái Lan.
Những vấn đề người nuôi thủy sản cần quan tâm
Hiện nay, nhu cầu thủy sản trên thế giới ngày càng tăng, sản lượng thủy sản cũng tăng lên để đáp ứng kịp với nhu cầu. Việc tăng trưởng quá nhanh đã kéo theo nhiều hệ lụy cho ngành thủy sản như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh bùng phát khó kiểm soát…
Cá, tôm được cho ăn lượng thức ăn khổng lồ, nhưng có đến 70-80% bị tồn lại trong ao nuôi làm cho môi trường nước ao chứa nhiều chất dinh dưỡng. Điều này dẫn tới hệ quả là lãng phí một lượng lớn kinh phí cho thức ăn thủy sản. Tạo ra dư lượng độc hại (Sulphide, Amoniac,…) tích tụ. Dẫn tới khả năng tăng trưởng của cá, tôm bị ảnh hưởng. Việc nuôi mật độ cao bị hạn chế.
Để giải quyết vấn đề trên, nhiều giải pháp đã được nhắc tới như nuôi mật độ thấp, ứng dụng RAS công nghiệp hay ứng dụng công nghệ biolfoc. Theo nhận định từ PGS. TS Đoàn Văn Hiến, việc nuôi mật độ thấp sẽ khó đáp ứng được giá trị về kinh tế cho người nuôi, khó nâng cao sản xuất. Đối với nuôi theo mô hình công nghiệp ứng dụng RAS khá tốn kém. Bởi vậy, theo PGS. TS Đoàn Văn Hiến, biofloc được đánh giá là công nghệ phù hợp nhất tại thời điểm hiện nay.
“Vấn đề lớn nhất trong NTTS hiện nay là dịch bệnh, nguồn thức ăn (70-80% vốn đầu tư), con giống (đặc biệt là tôm). Dự án giữa Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Đại học Chiang Mai sẽ tập trung giải quyết 3 vấn đề trên thông qua việc ứng dụng công nghệ biofloc. Biofloc là một công cụ để góp phần phát triển NTTS bền vững. Kết hợp giữa biofloc và các phụ phẩm làm giảm lượng thức ăn, hạn chế dịch bệnh trong NTTS”, PGS. TS Đoàn Văn Hiến chia sẻ.
PGS. TS Đoàn Văn Hiến, Đại học Chiang Mai, Thái Lan chia sẻ tại hội thảo
Hiểu về biolfoc để ứng dụng thành công
Theo chia sẻ từ PGS. TS Đoàn Văn Hiến, công nghệ biofloc giúp hạn chế việc trao đổi nước, 5% lượng nước sẽ được thay mỗi tuần, điều này giúp người nuôi tiết kiệm lượng nước khá lớn. Kết hợp sử dụng máy sục khí để hòa tan các chất thải trong nước để các vi sinh vật trong ao sử dụng được, nhân khối lượng vi sinh vật trong ao nuôi lên, sẽ sử dụng thức ăn thừa và phân, làm cho nước nuôi sạch hơn.
Thông thường, trong ao có đủ nitơ để sản xuất tế bào mới. Nhưng trong quá trình nuôi, người nông dân có thể bổ sung các nguyên liệu giàu carbon và nghèo protein (carbohydrate, CH), chẳng hạn như tinh bột hoặc xenlulozơ (bột mì, mật đường, sắn,…). Khi đó, cần phải bổ sung thêm nitơ cho môi trường nước nuôi, đảm bảo tỷ lệ C/N cao hơn 10. Vi khuẩn sẽ lấy nitơ từ nước và kiểm soát chất lượng nước.
Bioflocs được tạo thành từ vi khuẩn, động vật nguyên sinh,…. Thông thường, đường kính của chúng là 0,1-2 mm. Để tạo biofloc, đầu tiên cần thêm nước vào bể. Bổ sung 50 kg muối vào mỗi bể. Bổ sung mật đường với lượng 1 kg/bể/2 ngày. Thêm thức ăn cho tôm (hoặc nguồn nitơ khác) với tỷ lệ 0,2 kg/bể. Chế phẩm sinh học (PondPlus): 0,01 kg/bể/7 ngày. Sục khí: 24 giờ.
Để phát triển hệ thống biofloc có thể mất vài tuần, tùy thuộc vào sinh khối. Ban đầu, tảo sẽ phát triển, giai đoạn tiếp theo chuyển sang màu nâu. Quá trình chuyển đổi này sẽ diễn ra nhanh đối với cá rô phi và lâu hơn với tôm. Tiến hành bổ sung thêm carbon nếu TAN trên ~2 mg/l. Việc bổ sung thêm đất sét, cám lúa mì,… làm hạt giống cho quá trình hình thành biofloc. Và điều quan trọng nhất là nên sử dụng nguồn nước tái chế từ ao nuôi biofloc có kết quả tốt trước đó.
Việc phát triển hệ thống biofloc sẽ trải qua 5 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Đã tìm thấy hạt biofloc nhưng không thể đo lường được (chủ quan)
- Giai đoạn 2: Khối biofloc được tìm thấy với số lượng nhỏ, < 1,0 ml/lít
- Giai đoạn 3: Khối biofloc được tìm thấy nhiều, 1,0 – 5,0 ml/lít
- Giai đoạn 4: Khối biofloc phát triển nhiều, 5,1 – 10,0 ml/lít
- Giai đoạn 5: Khối biofloc được tìm thấy nhiều, > 10,1 ml/lít
Hàm lượng tổng C/N đóng vai trò quan trọng, cần giữ cho tỷ lệ C/N ở mức ~15-25. Điều chỉnh theo hàm lượng TAN và CO2. Tiến hành xả bùn 1-2 lần/ngày đối với ao nuôi cá rô phi và xả bùn hàng tuần đối với ao nuôi tôm.
Theo PGS. TS Đoàn Văn Hiến, điều quan trọng nhất là người nuôi cần giám sát và lưu lại các chỉ số ao nuôi thường xuyên để có thể kịp thời điều chỉnh khi có sự thay đổi.
Bình hình nón Imhoff để đo hàm lượng biofloc
Có thể thấy ứng dụng biofloc trong NTTS giúp giải quyết nhiều vấn đề. Theo PGS. TS Đoàn Văn Hiến, công nghệ biofloc đáp ứng tiêu chí an toàn sinh học rất tốt, không có sự xuất hiện của WSSV trong môi trường nước. Hệ thống nuôi không thay nước hoặc thay nước rất ít trong toàn bộ quá trình nuôi. Năng lực sản xuất được đánh giá tăng từ 5-10%, kích thước phát triển của tôm cao hơn khoảng 2,0g so với hệ thống nuôi thông thường. FCR thấp (từ 1,0 đến 1,3). Tiết kiệm từ 15-10% chi phí sản xuất cho vụ nuôi.
Tuy nhiên, theo PGS. TS Đoàn Văn Hiến, công nghệ này cũng bộc lộ một số nhược điểm cần được khắc phục như tiêu tốn điện năng. Hệ thống phải đáp ứng duy trì nguồn điện 24/24, việc ngắt nguồn điện trong một vài giờ có thể gây ra những sự cố nghiêm trọng. Bên cạnh đó, để ứng dụng được công nghệ yêu cầu các ao nuôi phải lót bạt hoàn toàn bằng nhựa HDPE hoặc tối thiểu là bán HDPE. Việc vận hành ao nuôi cũng đòi hỏi nhân sự có kỹ thuật và được đào tạo bài bản.
“Để khắc phục những vấn đề trên, rất cần sự quan tâm và hỗ trợ từ phía Chính phủ Việt Nam trong việc hỗ trợ về giá điện, giúp người nuôi giảm giá thành sản xuất”, PGS. TS Đoàn Văn Hiến đề xuất.
Kết thúc buổi hội thảo, các đại biểu đã thảo luận sôi nổi về những ưu, nhược điểm khi ứng dụng công nghệ này tại Việt Nam. Hội thảo kỳ vọng sẽ mang lại nhiều kỹ thuật thực tế cho người sản xuất, cũng như cải thiện cách nuôi trồng truyền thống, phát triển theo hướng bền vững.
Đại biểu tham dự hội thảo tham quan hệ thống nuôi trồng thủy sản theo công nghệ biofloc của Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Với chủ đề hấp dẫn, gắn liền với thực tiễn, hội thảo đã kết thúc thành công, nhận được sự quan tâm của các chuyên gia, doanh nghiệp và người nuôi trồng thủy sản
Phạm Huệ
Hưng Yên đã phê duyệt đề án nuôi hữu cơ, Mục tiêu đến năm 2025, tỉnh xây dựng thí điểm 6 mô hình nuôi thủy sản và 2 mô hình nuôi cá lồng theo hướng hữu cơ. Đến năm 2030, diện tích nuôi trồng thủy sản hướng hữu cơ khoảng 100ha, sản lượng cá ước đạt 1.300 tấn. Theo đó, nước sử dụng trong NTTS phải phù hợp với đối tượng nuôi, các biện pháp xử lý, quản lý nước trong ao nuôi không tác động xấu đến hệ sinh thái và môi trường.
Việc ứng dụng công nghệ biofloc giúp người nuôi quản lý được môi trường ao nuôi. Nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay khó khăn lớn nhất đối với người nuôi vẫn là giá thành đầu ra. Người tiêu dùng vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa sản phẩm nuôi hữu cơ theo hướng bền vững và sản phẩm nuôi theo mô hình thông thường.
Tham dự buổi hội thảo hôm nay, tỉnh Hưng Yên mong muốn năm bắt, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, hiện đại. Chúng tôi mong muốn được chuyển giao công nghệ và xây dựng các đề tài, dự án đưa công nghệ biofloc tới với người nuôi trồng thủy sản, hỗ trợ bà con nông dân tại các địa phương trên địa bàn tỉnh.
Ông Vũ Văn Điệp, Trưởng phòng Thủy sản, Sở NN&PTNT tỉnh Hưng Yên
- Công nghệ biolfoc li>
- Khoa Thủy sản li>
- NTTS li> ul>
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Aquaculture Vietnam sẽ trở lại vào tháng 3 năm 2026
- Giá tôm tăng tại Trung Quốc khi nguồn cung giảm từ Ecuador, Ấn Độ
- Thanh Hóa: Sản lượng nuôi trồng thủy sản 9 tháng đầu năm đạt trên 80%
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Sản xuất tôm giống Cà Mau chỉ đáp ứng 50% nhu cầu
- Giá tôm lao dốc, nông dân gặp khó
- Inforgraphic: Ngành tôm 6 tháng đầu năm 2024
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
- CEO Chuang Jie Cheng: Vị thuyền trưởng – chắc chèo vững lái vượt sóng thành công
- Loay hoay ‘bài toán’ thiếu hụt nguyên liệu ở ngành thủy sản
- Ra mắt bộ 3 cuốn sách Toàn cảnh ngành chăn nuôi, thú y, thủy sản Việt Nam
- Nhiều mặt hàng thủy sản xuất khẩu bứt phá tăng trưởng cao
- Vướng mắc tại các thị trường nhập khẩu thủy sản lớn
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt