Phòng bệnh và biện pháp chữa trị bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng

Thời gian gần đây người nuôi tôm thẻ chân trắng thường gặp tình trạng tôm bị “bệnh đốm đen”, tỷ lệ chết có thể lên đến 80 – 90% nếu không có biện pháp chữa trị kịp thời. Một số trường hợp phát hiện bệnh trễ thì hầu như mọi biện pháp chữa trị đều không mang lại kết quả tốt và phải tiến hành thu hoạch. Một số trường hợp khác tôm bị đốm đen chỉ được phát hiện khi thu hoạch dẫn đến giảm giá trị thương phẩm.

“Bệnh đốm đen” xảy ra ở các độ mặn khác nhau từ 5‰ cho đến 20 – 25‰. Thời gian xảy ra bệnh từ giai đoạn 20 ngày tuổi cho đến 90 ngày tuổi, tuy nhiên tập trung nhiều nhất ở giai đoạn 25 – 45 ngày tuổi. Tôm thường có tỷ lệ mắc “bệnh đốm đen” cao vào giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thay đổi bất thường diễn ra kéo dài trong 5 – 10 ngày, hoặc nhiệt độ nước trên 29 độ C trong thời gian dài. Tuy vậy, tôm vẫn có thể mắc phải bệnh này trong suốt năm bất kể ở tình trạng thời tiết nào.

Quan sát tôm bệnh thường thấy các dấu hiệu lâm sàng như sau:

– Tôm lờ đờ, giảm ăn hoặc bỏ ăn.

– Tốc độ tăng trưởng chậm.

– Trên thân xuất hiện nhiều đốm đen li ti hoặc mãng lớn màu đen, mang màu tối hoặc đen, đuôi mỏng, có thể có những tổn thương phụ bộ như mòn đuôi và vảy râu, cụt râu …

– Đối với những trường hợp bệnh nặng ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt, bề mặt thân tôm bị đốm đen có thể có mùi hôi.

Diễn biến bệnh:

Ở giai đoạn đầu của bệnh dấu hiệu lâm sàng dễ nhận thấy nhất là đàn tôm bắt đầu có dấu hiệu tổn thương như mòn đuôi, cụt râu, tuy nhiên tôm vẫn ăn bình thường, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy gan yếu, nhợt nhạt và đường ruột vẫn đầy thức ăn. Một dấu hiệu khác để phát hiệu sớm là râu và đuôi của tôm chuyển sang màu đỏ (dẫu hiệu nhiễm khuẩn nặng), đuôi có thể bị phồng nhẹ, nhưng các dấu hiệu tổn thương rõ ràng như trên chưa xuất hiện.

Giai đoạn kế tiết của bệnh là xuất hiện nhiều đốm đen rải rác trên vỏ tôm. Các đốm đen có thể xuất hiện cả trên giáp đầu ngực, và toàn thân tôm, nhiều trường hợp quan sát chỉ thấy vài vết đen giữa lưng, đầu hoặc ở đuôi có gây hiểu nhầm do mật độ tôm cao nên đâm nhau trong quá trình hoạt động và gây tổn thương vỏ. Giai đoạn này tôm bắt đấu giảm ăn dần dẫn đến bỏ ăn, tốc độ tăng trưởng chậm, chết rải rác trong ao, trong vó. Có thể xuất hiện tình trạng bị trắng lưng, đục thân và lột xác không hoàn toàn (dính vỏ, dính chân)

Giai đoạn nặng hơn tỷ lệ chết cao, tỷ lệ tôm xuất hiện đốm đen trên thân tăng cao và nhanh, có thể chiếm đến 70% đàn tôm. Gan tụy nhợt nhạt, tôm tấp mé, ruột rỗng (nhưng không phải là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính EMS)

Theo dõi sức khỏe đàn tôm

Thông thường người nuôi tôm bắt đấu quan sát tôm trong vó sau 30 ngày tuôi, nhiều trường hợp khi bắt đầu quan sát lần đầu tiên trong vó đã thấy tôm bị đốm đen. Các biện pháp kiểm tra tổng thể đàn tôm sau đó như chài ( với chài có kích thước mắt lưới nhỏ) hoặc đặt lồng bắt tôm  cho thấp tỷ lệ nhiễm bệnh  có thể lên đến 30 – 40% trong đàn.

Cũng có nhiều trường hợp người nuôi tôm ít khi có thoi quen đánh giá tình trạng sức khỏe qua vó hoặc không trài tôm kiểm tra định kỳ hàng tuần say khi tôm đạt 25 ngày tuổi nên khi phát hiện bệnh qua vài con tôm cập mé, lờ đờ xuất hiện đốm đen thì các biện pháp đánh giá tổng thể đàn tôm bằng chái lức này thường cho kết quả đàn tôm đã nhiễm bệnh với tỷ lệ cao.

Tốc độ lan truyền

Tùy theo điều kiện môi trường ao nuôi và sức khỏe của tôm mà tốc độ phát triển và lây lan trong đàn tôm nhanh hay chậm. Ghi nhận và thống kê hàng trăm trường hợp ao bị “Bệnh đốm đen” cho thấy tốc độ lây lan rất nhanh đối với các ao nuôi ô nhiễm nặng, hàm lượng khí độc NH3, NO2, H2S cao, hàm lượng oxy thấp dưới 04 ppm và không ứng dụng quy trình  sử dụng vi sinh định kỳ trong ao nuôi hoặc công tác chuẩn bị ao, tảy trùng diệt khuẩn trong giai đoạn này không được thực hiện hoàn chỉnh. Các kiểm tra vi khuẩn gây bệnh trên môi trường TCBS cho thấy mật số vi khuẩn gây bệnh trong môi trường nước từ 105 CFU/ml.

>>>Tham khảo: Khí độ Amonia (NH3) và tác động lên tôm

Cách quản lý Hydrogen Sulfie (H2S) trong ao nuôi tôm

Phòng bệnh

Hiện tại vân chưa có điều kiện xác dịnh rõ nguyên nhân gây bệnh là gì, tuy mọi dấu hiệu lâm sàng, lan truyền bệnh và kiểm tra vi khuẩn gây bệnh tổng số trên tôm bệnh cũng như trong môi trường nước có thể kết luận ban đầu tôm bị bệnh đốm đen là do vi khuẩn gây ra và gần như giống hoàn toàn với các mô tả về bệnh NHP (hoại tử gan tụy, hay còn có tên gọi khác là NHPB). Về nguyên tắc phần lớn các bệnh do nhiễm khuẩn và có tốc độ lây lan nhanh trong bầy đàn đều có thể nhiễm theo chiều dọc  (từ tôm bố mẹ, trại giống) và chiều ngan (từ môi trường) dựa trên cơ sở lỹ luận đó, việc phòng bệnh tất nhiên phải theo hướng chú trọng đến các biện pháp cải tạo và duy trì chất lượng môi trường ao nuôi tốt.

Các biện pháp phòng bệnh

  • Quá trình cả tạo ao cần phải diệt khuẩn kỹ lưỡng, trước và sau khi diệt khuẩn cần thực hiện kiểm tra mật số vi khuẩn gây bệnh.
  • Kiểm tra chất lượng tôm giống bằng kỹ thuật PCR không chỉ với bệnh EMS, đốm trắng, IHHNV, IMNV mà cả NHP
  • Mật độ thả phù hợp với thiết kế cơ sở hạ tầng, hệ thống quạt nước cung cấp oxy, độ sâu mực nước ao nuôi, mùa vụ cũng như kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật, mức độ am hiểu về tôm thẻ chân trăng của chính người nuôi.
  • Sử dụng các chế phẩm sinh học (probiotic) định kỳ và thường xuyên trong ao nuôi ít nhất trong 60 ngày đầu thả nuôi.
  • Kiểm tra mật số vi khuẩn gây bệnh định kỳ 5 – 7 ngày /lần nhằm có biện pháp can thiệp kịp thời khi phát hiện mật sô vi khuẩn tăng cao hơn 103 CFU/ml
  • Bổ sung khoáng chất và các chất tăng cường khả năng diệt khuẩn, tăng khả năng đề kháng của tôm trong ít nhất 45 ngày đầu thả nuôi và tốt nhất nên bổ sung ngay sau khi thả tôm.
  • Điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp, tránh dư thừa sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh phát triển nhanh.
  • Kiểm tra hàm lượng oxy trong ao nuôi thường xuyên để có biện pháp khắc phục nếu thiếu oxy cục bộ, kéo dài trong ao nuôi dễ gây stress cho tôm và qua đó ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi dễ nhiễm khuẩn.
  • Nên đặt vó kiểm tra tôm sau 15 ngày thả nuôi nhằm có thể phất hiện bệnh sớm

Biện pháp chữa trị

Tùy theo cường độ cảm nhiễm của bệnh, sức khỏe tôm, và thời gian phát hiện bệnh mà các biện pháp áp dụng chữa trị bệnh có hiệu quả hay không.

Đối với môi trường

  • Tiến hành diệt khuẩn trong ao bằng sản phẩm phù hợp tùy theo giai đoạn tuổi tôm. Quá trình này có thể lập lại 2 – 3 lần tùy theo tỷ lệ nhiễm bệnh trong ao cao.
  • Cấy vi sinh lại với hàm lượng cao su 36 giờ diệt khuẩn. Có thể bổ sung mật rỉ đường để điều chỉnh pH và giảm hàm lượng khí độc trong ao.
  • Tăng cường sụt khí

Đối với Tôm

  • Giảm cho ăn từ 10 – 35% lượng cho ăn hàng ngày
  • Bổ sung vitamin C, khoáng chất, vitamin tổng hợp và hoạt chất tăng cường hệ miễn dịch cho tôm

Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh trong quá trình điều trị vì chún có khả năng gây lờn thuốc nếu sử dụng không đúng cách, tái nhiễm với cường độ cao hơn dẫn đến khó chữa trị, nhiễm bệnh khác vì vô tình gây ra tình trạng lờn thuốc, biến thể với chủng vi khuẩn gây bệnh khác.

Tin mới nhất

T7,05/10/2024