Lê Minh Chính: “Cha đẻ” công nghệ nuôi tôm Semi-Biofloc

[Người nuôi tôm] – Có một người nuôi tôm đã nghiên cứu thành công quy trình nuôi tôm giúp cho mình và cho khác, đó là ông Lê Minh Chính. Người đã nghiên cứu và áp dụng thành công quy trình “Nuôi tôm theo công nghệ Semi – Biofloc”. Tạp chí Người Nuôi Tôm đã có cuộc trò chuyện đầu năm với ông Lê Minh Chính – “cha đẻ” của quy trình nuôi tôm theo công nghệ “Semi – Biofloc”.

Đưc biết năm 2018 là một năm thành công với ông. Điều gì đã làm nên thành công đó?

Năm 2018, trang trại đạt sản lượng hơn 100 tấn/diện tích nuôi 1,5ha, lợi nhuận 40% tổng đầu tư. Có được thành công như vậy là nhờ:

Thứ nhất, nối tiếp ưu điểm sử dụng ao ương dèo mà thầy Hoàng Tùng và tôi đã trình bày trong cuốn sách“Thực hành nuôi tôm theo công nghệ Semi – biofloc”, tôi tiếp tục hoàn thiện quy trình ương tôm trên bể nổi theo công nghệ biofloc. Ương tôm giúp tôi tạo môi trường vi sinh có lợi (trong đó có vi khuẩn dị dưỡng – hướng đi biofloc), kiểm soát mầm bệnh, qua đó hạn chế rủi ro, tỷ lệ sống tôm cao hơn thả truyền thống, chi phí sản xuất giảm đặc biệt tận dụng sử dụng diện tích mặt nước, tăng số vụ nuôi trong năm.

Thứ hai, nuôi tôm chia 2 đến 3 giai đoạn, tiến hành thu tỉa và nuôi tôm về size lớn (20 – 50 con/kg). Mật độ giảm dần ứng với các giai đoạn về sau. Chia tôm thành nhiều giai đoạn như vậy, tôi có thể đánh giá con giống qua sức tăng trưởng, giảm rủi ro ảnh hưởng của bệnh dịch, tạo môi trường mới cho tôm giúp tôm lớn nhanh. Thu tỉa, đảm bảo an toàn vốn người nuôi, giảm sự cạnh tranh môi trường sống giúp tôm nhanh về size lớn. Nuôi tôm về size lớn giúp tăng năng suất, phục vụ thị trường nội địa, bán được giá cao.

Thứ ba, quy trình nuôi tôm thương phẩm tôm thẻ chân trắng theo công nghệ semi – biofloc (ao nuôi vừa có sự hiện diện của biofloc và tảo) tiếp tục mang lại hiệu quả. Quy trình nuôi không thay nước giai đoạn đầu (2 tháng trở lại) giúp giảm rủi ro bệnh dịch, thay nước về cuối vụ giúp đảm bảo lợi nhuận hồ nuôi, kích tôm lớn nhanh.

Cùng thầy Nguyễn Tấn Sỹ – Phó Viện trưởng Viện NTTS ĐHNT xem tôm

Ông có thể chia sẻ những điểm nổi bật về quy trình này được không?

Đối với quy trình ương tôm trong bể nổi, bể tròn có đường kính d = 10 – 12m (diện tích từ 78 – 113 m2), PL 12 – 27 (ương 15 ngày); tôm được ương với mật độ từ 7.500 – 12.500 con/m2  hay 600.000 – 1.000.000 PL. Ương tôm trên bể tôi lưu ý loại thức ăn sử dụng phải đảm bảo hàm lượng protein cao, giúp tôm tích lũy dinh dưỡng để khi ra môi trường mới có thể tăng trưởng bù.

Lượng thức ăn sử dụng trong bể ương sẽ ít hơn rất nhiều so với thả nuôi trực tiếp, nhưng số lần cho ăn tăng lên (6 lần/ngày). Đặc biệt ương tôm, tăng trưởng tôm sẽ chậm hơn so với thả trực tiếp ao nuôi theo truyền thống, nhưng đối với tôm thẻ có sự tăng trưởng bù ở giai đoạn sau. Tức, theo kinh nghiệm nuôi, tôm ương trong bể sau 20 – 25 ngày sẽ đuổi kịp tôm thả theo cách truyền thống, đối với ao ương thì thời gian ngắn hơn. Ương tôm trong bể hay sử dụng ao ương dèo theo công nghệ biofloc tức trong ao bể nuôi không có sự hiện diện của tảo, ở đây chỉ có những hạt hữu cơ lơ lửng, là nơi sinh sống của vi sinh có lợi.

Nuôi tôm nhiều giai đoạn, đối với san tôm giai đoạn từ bể ương xuống ao nuôi được san bằng ống âm dưới đất, tôm sẽ theo dòng chảy xuống ao nuôi. San tôm giai đoạn 2, khi đó tôm đã lớn, bỏ đói một thời gian (ít nhất 1h), kéo lưới 1 góc cố định – rải thức ăn ở đó để dụ tôm thường chiếm 1/3 ao thương phẩm. Rổ san tôm cần có 1 lớp lưới lỗ nhỏ giảm sự thoát nước. Làm như vậy, tôm sẽ giảm cong thân đục cơ khi sang ao mới, size tôm san phù hợp là 600 – 700 con/kg.

Tôm thẻ nuôi theo quy trình semi – biofloc trong ao nuôi vẫn có sự xuất hiện của tảo, mật độ biofloc chỉ ở mức 0,5 – 2,5 mg/L. Nguồn Cacbon tôi sử dụng duy nhất là mật đường, được sục trước với nước ao đã qua xử lý sau đó bổ sung thêm các chủng vi sinh có lợi. Lượng đánh mật đường được bổ sung dựa trên màu nước ao nuôi, màu nước tôi duy trì là màu nâu kaki hoặc về cuối vụ có thể có màu nâu xanh tảo thậm chí màu hơi đen đen bởi lúc này hàm lượng chất hữu cơ trong ao đã cao. Trường hợp biofloc mất, nguyên nhân như do thời tiết như sau cơn mưa lớn. Diễn biến tảo có cơ hội bùng phát (trường hợp tương tự khi tảo lấn át biofloc ao nuôi). Không sử dụng hóa chất cắt tảo ngay (như BKC), nếu dùng tảo chết kết hợp biofloc đang phân hủy đáy ao gây lượng lớn khí độc ao nuôi. Kiểm tra giảm lượng thức ăn, tích cực siphon. Đối với tôm nhỏ, duy trì ổn định màu nước. Khi tôm trên 45 ngày tuổi, thời tiết nắng ráo sử dụng mật đường cắt tảo: 40 – 50 kg mật rỉ đường/ao 1600 m2 liên tiếp 2 – 4 ngày. Bên cạnh đó, sử dụng sản phẩm hấp thu khí độc như Yucca, hay thêm dòng vi sinh Rhodopseudomonas palustris. Các yếu tố môi trường được theo dõi định kỳ như pH, khí độc NH3/NH4, NO2, độ kiềm. Từ đó có căn cứ xử lý môi trường phù hợp, ngoài ra qua đó đánh giá được lượng    và    chất    sản phẩm mình sử dụng. Ao nuôi tôm có hiện tượng khi lột xác chết, cần  kiểm  tra  lại  độ kiềm  và  hàm  lượng các  khoáng  (Ca,  Mg) và ôxy hòa tan về đêm, chuẩn bị nước đã qua xử  lý  tiến  hành  thay 20  –  30%.  Hệ  thống công trình thiết bị ao nuôi  hoạt  động  phù hợp   giúp   đảm   bảo ôxy ao nuôi, hạt floc được lơ lửng, đặc biệt chất thải của tôm gom về  trung  tâm  ao được siphon đưa ra hằng ngày. Thời gian đầu, một ngày siphon 1 lần, về cuối vụ lượng chất thải tích lũy nhiều, siphon ngày 2 lần sáng và chiều. Trung tâm ao hình lòng chảo, giúp chất thải tập trung dồn về đó. Ngoài ra, tôi sử dụng máy cho ăn có nhiều ưu điểm, trộn thức ăn với lớp áo chuối ủ vi sinh có lợi đường ruột (Lactobacillus spp.) cùng kháng sinh thực vật (tỏi).

Ao nuôi 1600 m2

Đưc biết quy trình do ông nghiên cứu đã được áp dụng thành công ở nhiều nơi. Để áp dụng quy trình này thì có khó không thưa ông?

Để áp dụng quy trình này thực sự không khó, chúng ta cần lưu ý những vấn đề sau:

Đầu tiên là về hệ thống nuôi, cần có ao ương dèo hoặc bể ương, ao nuôi, ao lắng, ao xử lý (cấp bù), ao chứa chất thải, nhà nhân sinh khối vi sinh. Bể ương có nhiều sự lựa chọn, chúng ta có thể sử dụng bể ương nổi khung thép mạ kẽm hoặc xây dựng bê tông lót bạt. Ao nuôi lót bạt hoàn toàn có diện tích 1.500 – 2.000 m2, ở trung tâm ao là lòng chảo nơi tập trung chất thải, cây siphon dài chừng 15 – 20 m. Thiết bị ao nuôi, bố trí 5 – 6 dàn quạt lớn, ở trung tâm ao bố trí thêm 2 dàn quạt 4 cánh nhằm tăng độ gom chất thải, và 2 máy sục lủi thay cho dàn ôxy đáy quanh bờ. Mỗi ao nuôi được lắp một máy cho ăn cài theo chế độ hẹn giờ, căn chỉnh dựa trên sàng cho ăn, tùy thuộc vào thời tiết, sức khỏe tôm, môi trường nước mà có những căn chỉnh hợp lý. Thiết bị khác quan trọng nữa là máy phát điện dự phòng, nuôi tôm theo công nghệ semi – biofloc duy trì quạt nước liên tục.

Thứ hai, cần hiểu nguyên lý của quy trình nuôi, các yêu cầu đảm bảo khi áp dụng như đã nói ở trên. Diễn biến của chất lượng nước ao nuôi có mối liên quan

với mật độ vi khuẩn dị dưỡng, tảo, sinh khối của tôm nuôi và lượng thức ăn sử dụng. Hằng ngày, đánh mật đường, vi sinh xuống ao nuôi giúp ao nuôi có môi trường tốt, vi sinh có lợi ức chế nhóm vi khuẩn có hại. Sử dụng vi sinh và các sản phẩm khác có chất lượng uy tín. Thường xuyên theo dõi sức khỏe của tôm, các thông số quan trọng của chất lượng nước để có điều chỉnh linh hoạt.

Là người có nhiều năm gắn bó với nghề nuôi tôm. Ông có nhận định thế nào về nghề nuôi tôm hiện nay và những năm tiếp theo?

Năm 2018 vừa qua đi, người nuôi tôm đặc  biệt  quan  tâm  và  lo  lắng  giá  tôm xuống thấp kỷ lục trong 10 năm gần đây, nhưng tôi tin đây cũng là một cơ hội để chúng ta nhìn nhận lại quá trình nuôi của chúng ta. Xét từ góc độ kinh tế đến góc độ tâm lý người nuôi, khi giá tôm xuống thấp người dân phải nhìn nhận lại các sản phẩm mình đang sử dụng thật sự có mang lại hiệu quả hay chỉ “an lòng người nuôi” thay vì cho con tôm. Giá tôm cao, người dân “lạm dụng” hóa chất, kháng sinh, sử dụng vi sinh nhập ngoại được bù đắp lại  khi  thu  hoạch  nên  người nuôi  nhiều  khi  còn  giữ  lối  tư duy“dùng thí”. Giá tôm thấp, chỉ những quy  trình  nuôi,  những sản  phẩm  thực  sự  cần  thiết mang hiệu quả cho người nuôi mới có lãi, có lời. Và tôi tin quy trình nuôi tôm theo công nghệ Semi biofloc kết hợp với nuôi tôm 2 – 3 giai đoạn sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực cho người nuôi tôm. Sắp tới, trang trại chúng tôi cũng sẽ triển khai

quy trình nuôi tôm 3 cấp, mỗi giai đoạn nuôi kéo dài 1 tháng, tôi nói vui anh em “tháng nào cũng sẽ cho ra tôm”. Quy trình nuôi tiếp tục hoàn thiện, ở 2 giai đoạn đầu trong mái che lưới lan nuôi theo quy trình biofloc và giai đoạn thành phẩm, ao nuôi ngoài trời theo quy trình semi – biofloc.

Năm 2019 và những năm  tiếp  theo, tôi tin tưởng ngành tôm chúng ta sẽ có những bước phát triển tốt, từ kỹ thuật đến quy trình nuôi, ngày càng hoàn thiện hơn, an toàn và bền vững với môi trường.

Chào đón năm mới 2019, ông có những lời nào muốn gửi đến người nuôi tôm?

Năm 2019, tôi xin gửi những lời chúc tốt đẹp nhất tới bà con nuôi tôm. Chúc bà con nuôi tôm năm tới áp dụng được thêm những kỹ thuật mới trong nuôi tôm, góp phần giảm chi phí sản xuất, từ đó có những vụ mùa thắng lợi, bội thu và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình quy trình nuôi tôm 3 giai đoạn – Qũy đất 1,3ha thiết kế 4 ao nuôi và 1 bể ương

GIA HƯNG

 

Tin mới nhất

T4,04/12/2024