[Người Nuôi Tôm] – Hệ thống ương tôm (nursery system) – giai đoạn trung gian giữa tôm giống (PL) và ao thương phẩm được xem là giải pháp công nghệ giúp nâng cao tỷ lệ sống, tăng cường an toàn sinh học, tối ưu lịch vụ nuôi và cải thiện lợi nhuận cho người nuôi tôm.
Dự án ương tôm đa giai đoạn tại MẠPL ở Gujarat, Ấn Độ. Bể ngoài trời nằm ở phía xa bên trái và mái vòm dài màu trắng với các bể trong nhà nằm ở giữa. (Ảnh: ST)
Vùng đệm an toàn sinh học
Trại ương không chỉ là nơi nuôi dưỡng mà còn là công cụ quản lý linh hoạt, tạo vùng đệm an toàn sinh học giữa trại giống và ao thương phẩm. Tại đây, người nuôi có thể sàng lọc, phát hiện sớm và xử lý bệnh, đồng thời loại bỏ tôm yếu, từ đó giảm nguy cơ mầm bệnh xâm nhập và hạn chế bùng phát dịch. Ngoài ra, trại ương còn giúp tôm thích nghi với biển động độ mặn, đặc biệt ở những khu vực có ao với độ mặn khác nhau hoặc nuôi trong vùng nước lợ, nước ngọt.
Giai đoạn ương dưỡng giúp tôm chuyển sang ao thương phẩm khỏe mạnh, ăn tốt, tăng trưởng đồng đều và phản ứng tốt với stress môi trường. Điều này nhờ vào các biện pháp chăm sóc như men vi sinh, hợp chất sinh học, chất kích thích miễn dịch, và thức ăn chất lượng cao, kết hợp với biofloc hoặc hệ thống RAS. Trại ương cũng mang lại linh hoạt trong sản xuất, cho phép người nuôi thả giống theo từng đợt, từ đó tối ưu hóa thức ăn, năng lượng và lên lịch thu hoạch phù hợp, cải thiện hiệu quả kinh tế và quản lý dòng tiền.
Nuôi tôm đa giai đoạn
Nuôi trồng đa pha bao gồm việc chia chu kỳ sản xuất thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có môi trường và mục tiêu sản xuất được tối ưu hóa. Một ví dụ điến hình là mô hình nuôi đa giai đoạn của Công ty TNHH Nuôi trồng Thủy sản Mayank (MAPL) tại Gujarat, Ấn Độ. Cơ sở này được thiết kế biệt lập, tránh xa khu vực nuôi tôm tập trung để giảm nguy cơ lây nhiễm.
Hai cách tiếp cận trong nuôi ấu trùng
Cách thứ nhất là ấu trùng PL 5 – 6 được ương trong bể đến PL 15 (8 – 10 PL/L), sau đó chuyển ra bể ngoài trời (4 – 5 PL/L) nuôi thêm 20 – 25 ngày trước khi thả ao thương phẩm ở PL 35 – 40. Cách thứ hai là thả trực tiếp PL 8 vào bể ngoài trời 22 – 30 ngày ngày – 6 PL/L) rồi chuyển sang ao nuôi; đôi khi sử dụng PL 5 – 6 để tăng số lượng đóng gói (4.000 – 4.500 con/túi so với 3.000 – 3.300 con/túi PL8 – 10), qua đó giảm chi phí vận chuyển và hạ giá thành giống 20- 25%.
Ngoài ra, việc áp dụng biofloc giúp hạn chế thay nước, nâng cao sức khỏe tôm. Con giống được vận chuyển bằng xe tải chuyên dụng có oxy liên tục và SOP chuẩn. Dù tăng trưởng chậm giai đoạn ương, tôm sẽ bù trừ mạnh khi vào ao thương phẩm với điều kiện nuôi tối ưu.
Hình ảnh ương tôm giống nhiều giai đoạn của MAPL. Tôm thẻ chân trắng và tôm sú hậu ấu trùng. L. (A) và (B) Tôm thẻ chân trắng Livtopenaeus và (C) và (D) Tôm sú Penaeus.
Lợi ích của vườn ương đa giai đoạn cách ly
Mô hình ương nhiều giai đoạn cách ly mang lại nhiều lợi ích thiết thực:
• Giúp kiểm soát và quản lý sức khỏe ấu trùng chặt chẽ hơn, đồng thời tạo điều kiện thích nghi tốt với độ mặn, nâng cao khả năng sống sót.
• Rút ngăn số ngày nuôi, tiết kiệm chi phí thức ăn và năng lượng, gia tăng hoặc thậm chí gấp đôi sản lượng, cải thiện hiệu quả kinh tế theo quy mô.
• Tôm giống có tăng trưởng bù trừ rõ rệt sau khi thả ao thương phẩm, với ADG đạt 0,29g so với 0,23g khi thả trực tiếp. Khi kết hợp ao ương và ao nuôi, lợi ích trung bình đạt thêm 8 – 10%, FCR cải thiện và tỷ lệ sống tăng 10 – 15%, tùy thuộc vào di truyền, mật độ thả, quản lý và thời gian nuôi.
• Giảm đáng kể tác động của stress mùa hè (amoniac, nitrit, Vibrio spp.), phòng ngừa hiệu quả bệnh ruột trắng, phân trắng và hội chứng chết sớm.
• Cho phép thả giống theo kế hoạch, diều chỉnh sản lượng linh hoạt theo nhu cầu thị trường và duy trì quản lý dòng tiền ổn định.
• Tạo sự linh hoạt trong chuyển đổi giữa tôm sú (Penaeus monodon) và tôm thẻ chân trắng (L. vannamei), đáp ứng mục tiêu sản xuất và nhu cầu thị trường, đặc biệt sau tháng 8 tại khu vực Tây Ân Độ khi tiêu thụ tôm thẻ tăng cao.
• Rút ngắn chu kỳ nuôi giúp thu hoạch tôm đạt cỡ thương phẩm trước khi dịch bệnh đốm trắng (WSSV) bùng phát: 10- 12 g đối với tôm thẻ chân trắng và 33 – 40 g đối với tôm sú.
Phụ thuộc vào dòng gen tôm
Với các dòng tôm có tốc độ tăng trưởng (ADG) trên 0,30 g, người nuôi có thể thả giống trực tiếp nếu kiểm soát tốt các yếu tố lý hóa, Vibrio spp., tải lượng hữu cơ, xử lý nước và đạt tỷ lệ sống trên 75%. Tuy nhiên, không phải hộ nuôi nào cũng đáp ứng được, dẫn đến dịch bệnh và tỷ lệ thất bại cao ở châu Á. Vấn đề then chốt vẫn là chi phí sản xuất và hiệu quả kinh tế cuối cùng.
Thực tế cho thấy, tôm SPF PL8 có thể đạt 2,5 – 3 g sau 30 ngày, trong khi nếu ương PL5 đến PL15 trước khi thả, trọng lượng đạt 4 – 4,5 g, tùy dòng gen. Nhờ tần suất lột xác cao, tôm ương PL15 có thể đạt 14 g so với 10,25 g ở tôm thả trực tiếp cùng thời điểm, tức tăng trưởng hơn 35%.
Thả hậu ấu trùng non (PLS) giúp giảm chi phí giống 20 – 25%, trong khi thả PL15 lại cho tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt hơn, cân bằng chi phí sản xuất/kg tôm ở giai đoạn cuối. Mô hình thả giống nhiều đợt giúp duy trì tỷ lệ thành công ổn định và có lãi ở kích cỡ nhỏ (10 – 16 g).
Di truyền hổ đen SPF mới
Nghiên cứu cho thấy, ương tôm giống 10 – 15 ngày trước khi thả vào ao độ mặn thấp (=15 ppt) giúp cải thiện sức khỏe, miễn dịch, nâng ADG thêm 8 – 10% và ổn định tỷ lệ sống. Mô hình này đặc biệt phù hợp với các dòng tôm có tốc độ tăng trưởng trung bình, nhờ hiệu ứng tăng trưởng bù sau khi thả. Với các dòng tăng trưởng nhanh, việc ương ngắn ngày vẫn cần thiết để kiểm tra sức khỏe và duy trì thành công. Thực tế ở Mỹ Latinh và Ecuador cho thấy, ương nuôi đã giúp doanh nghiệp tận dụng hiệu quả tiềm năng di truyền và nâng cao tỷ lệ thành công.
Tuy nhiên, vườn ương không phải là giải pháp cho mọi vấn đề, nó được coi như một trợ lý tiền phát triển “PAL” cho ấu trùng hậu ấu trùng hoặc công nghệ nuôi trồng thủy sản chính xác “Partner” để nuôi dưỡng và tăng lợi nhuận có khả năng cung cấp tôm khỏe mạnh và lợi nhuận kinh tế tốt với tỷ lệ thành công ổn định.
Lê Vy (Theo Aquaculture Asia Pacific)
- Ấn Độ li>
- trại ương tôm li> ul>
- Công nghệ dựa trên RNA: Cách mạng hoá sức khoẻ tôm
- Quảng Ngãi: Thua lỗ triền miên, nghề nuôi tôm thành “canh bạc” may rủi
- Thủy sản Việt Nam tạo sức hút tại thị trường châu Á
- Nhiều kỳ vọng với con tôm sú thế hệ mới
- Dịch bệnh liên tiếp tấn công, người nuôi tôm thiệt hại nặng nề
- Mycoprotein: Dinh dưỡng bền vững thay thế bột cá trong nuôi tôm
- Giá trị cộng thêm từ phụ phẩm tôm – góc nhìn môi trường và phát triển bền vững
- Ngân hàng Nhà nước nâng gói tín dụng cho nông, lâm, thủy sản lên 185.000 tỉ đồng
- Tăng 200%, tôm hùm xuất khẩu lần đầu vượt mốc nửa tỉ USD
- Chọn lọc di truyền: Tăng khả năng chịu mặn ở tôm thẻ chân trắng
Tin mới nhất
T5,02/10/2025
- Công nghệ dựa trên RNA: Cách mạng hoá sức khoẻ tôm
- Trại ương tôm: Công cụ vận hành linh hoạt cho người nông dân
- Quảng Ngãi: Thua lỗ triền miên, nghề nuôi tôm thành “canh bạc” may rủi
- Thủy sản Việt Nam tạo sức hút tại thị trường châu Á
- Nhiều kỳ vọng với con tôm sú thế hệ mới
- Dịch bệnh liên tiếp tấn công, người nuôi tôm thiệt hại nặng nề
- Mycoprotein: Dinh dưỡng bền vững thay thế bột cá trong nuôi tôm
- Giá trị cộng thêm từ phụ phẩm tôm – góc nhìn môi trường và phát triển bền vững
- Ngân hàng Nhà nước nâng gói tín dụng cho nông, lâm, thủy sản lên 185.000 tỉ đồng
- Tăng 200%, tôm hùm xuất khẩu lần đầu vượt mốc nửa tỉ USD
- Ngành tôm miền Bắc: Nuôi bài bản, đẩy lùi rào cản
- Nông dân đổi đời nhờ mô hình canh tác hiện đại
- Trí tuệ nhân tạo (AI): Mở lối nghề nuôi trồng thuỷ sản thông minh
- Thực tiễn sản xuất tôm: Câu chuyện về giống nội địa và ngoại nhập
- Chứng nhận ASC: Cơ hội nâng tầm thuỷ sản Việt Nam
- “Đôi bạn cùng tiến” có lợi cho nuôi tôm?
- Làm giàu từ nuôi tôm công nghệ cao
- Xuất khẩu tôm: Cần xây dựng thương hiệu gắn với chất lượng
- Bình Định tăng cường quản lý hoạt động khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản
- Thủy sản Việt Nam tìm cách thoát ‘bẫy phụ thuộc’
- Xuất khẩu tôm: Cần xây dựng thương hiệu gắn với chất lượng
- Giá trị xuất khẩu thủy sản khởi sắc những tháng đầu năm
- Tăng cường kiểm soát thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu
- Đề xuất thành lập “nhóm đặc nhiệm” về thương mại nông sản Việt Nam – Singapore
- Hà Nội thúc đẩy phát triển nguồn lợi thủy sản
- Sản lượng thủy sản tháng đầu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Người nuôi tôm phập phồng với “ngày nắng, đêm mưa”
- Động lực phát triển đột phá ngành thủy sản
- Công nghệ sinh học toàn diện: Giải pháp nuôi tôm thành công từ Tâm Việt
- Biện pháp kiểm soát khí độc Nitrite (NO2) trong mô hình nuôi tôm TLSS-547
- Ngành chức năng và nông dân Quảng Nam cùng gỡ khó cho nuôi tôm nước lợ
- Thời tiết bất lợi gây thiệt hại hơn 27 triệu con tôm sú, tôm thẻ nuôi
- [Tuyển dụng] – Công ty TNHH Seven Hills Trading tuyển dụng nhiều vị trí hấp dẫn trong năm 2025
- Nhiều diện tích tôm nuôi của Nghệ An bị bệnh đốm trắng
- Nuôi tôm càng xanh VietGAP: Giảm chi phí, tăng lợi nhuận
- Thời tiết bất lợi, người nuôi tôm treo đùng
- An toàn sinh học: Giải pháp then chốt cho bài toán dịch bệnh thủy sản
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân