[Người Nuôi Tôm] – Chi phí đầu vào như thức ăn, con giống, điện và nhân công tăng cao tiếp tục bào mòn lợi nhuận của người nuôi tôm.
Nửa đầu năm 2025: Ngành tôm tăng trưởng ấn tượng
Theo số liệu từ Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ NN&MT) và Cơ quan Thống kê quốc gia (Cục Thống kê, Bộ Tài chính), tổng sản lượng tôm của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt khoảng 605,5 nghìn tấn, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2024 (559,8 nghìn tấn). Trong đó, sản lượng tôm nuôi đạt 533,5 nghìn tấn, ghi nhận mức tăng 9,4% so với con số 487,7 nghìn tấn cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, tôm thẻ chân trắng, đối tượng nuôi chủ lực hiện nay đạt sản lượng 366,9 nghìn tấn, tăng mạnh 10,3% so với 332,7 nghìn tấn của năm 2024. Tôm sú, dù tăng trưởng khiêm tốn hơn, cũng đạt 125,1 nghìn tấn, nhỉnh hơn 2,5% so với mức 122,1 nghìn tấn cùng kỳ. Mức tăng trưởng tích cực này phản ánh nỗ lực tái cơ cấu ngành tôm theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất và thích ứng linh hoạt với điều kiện thời tiết, dịch bệnh.
Đối với xuất khẩu, kim ngạch 5 tháng đầu năm 2025 ước đạt 1,3 tỷ USD, tăng khoảng 7% so với cùng kỳ. Riêng thị trường Hoa Kỳ ghi nhận mức tăng trưởng đột phá, với lượng nhập khẩu tôm Việt Nam đạt hơn 7.000 tấn trong tháng 5, tăng 72% so với tháng 10/2024, thời điểm thị trường chạm đáy. Giá tôm nguyên liệu cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Tôm thẻ 50 – 60 con/kg tăng 5 – 7% so với cùng kỳ, trong khi tôm sú biến động nhẹ do nguồn cung tôm cỡ lớn tại miền Tây đang dồi dào.
Tôm Việt đối mặt với nhiều áp lực kéo dài
Mặc dù, tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi chủ lực trong ngành thủy sản Việt Nam, nhưng chi phí sản xuất hiện vẫn là rào cản lớn đối với hộ nuôi. Theo khảo sát thực tế tại các tỉnh ĐBSCL năm 2024 – 2025, giá thành sản xuất 1 kg tôm thẻ chân trắng theo mô hình siêu thâm canh dao động khoảng 105.000 đồng/kg, tương đương 4,3 – 4,5 USD/kg.
Với mật độ nuôi cao (600 con/m2), hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) khoảng 1,1 – 1,4 và tỷ lệ sống đến giai đoạn 3 chỉ đạt 55%, bài toán lợi nhuận trong nuôi tôm thẻ đòi hỏi kỹ thuật nuôi chính xác và khả năng tối ưu vận hành. Việc kiểm soát chi phí đầu vào và nâng cao năng suất là chìa khóa sống còn để người nuôi giữ vững hiệu quả kinh tế trong bối cảnh “bão chi phí” đang lan rộng.
Trong cơ cấu chi phí, thức ăn chiếm tỷ trọng cao nhất, lên tới 60%, với mức trung bình hơn 62.600 đồng/kg. Tiếp theo là chi phí con giống, thuốc, hoá chất xử lý môi trường, điện năng phục vụ quạt nước và sục khí. Ngoài ra, các khoản như nhân công, chi phí quản lý, khấu hao hệ thống, chi phí thu hoạch và rủi ro hao hụt cũng đóng vai trò đáng kể. Tổng chi phí cho một vụ nuôi dao động từ 883.000 đồng đến 1.356 triêu đồng/1.000 m2.
Thức ăn chăn nuôi (TĂCN), đặc biệt là thức ăn thủy sản hiện đang là “gánh nặng chi phí” lớn nhất đối với người nuôi tôm. Trong bối cảnh giá bán tôm thương phẩm chưa hồi phục tương xứng, sự phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu khiến bài toán lợi nhuận ngày càng trở nên khó giải.
Theo Cục Chăn nuôi và Thú y, năm 2023 Việt Nam nhập khẩu khoảng 16,8 triệu tấn nguyên liệu và phụ gia TĂCN, với kim ngạch 6,8 tỷ USD. Trong năm 2024, nhập khẩu nhóm hàng này đạt hơn 4,9 tỷ USD, giảm nhẹ 1,1% so với năm trước, nhưng vẫn chiếm tới 80% tổng nhu cầu cho thấy mức độ phụ thuộc lớn vào nguồn cung bên ngoài.
Xu hướng này kéo dài sang năm 2025. Thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, tháng 4/2025, kim ngạch nhập khẩu TĂCN đạt gần 408 triệu USD, tăng 11% so với tháng 3 nhưng giảm 18,1% so với cùng kỳ 2024. Lũy kế 4 tháng đầu năm, nhập khẩu đạt 1,57 tỷ USD, giảm 6,9% so với cùng kỳ. Đáng chú ý, nhập khẩu từ khối CPTPP giảm mạnh tới 57,8%, phản ánh sự biến động về giá và nguồn cung toàn cầu, đặt ra yêu cầu cấp thiết về đa dạng hoá và ổn định nguồn nguyên liệu.
Ngoài vấn đề về nguyên liệu TĂCN, dịch bệnh cũng là một trong những lý do khiến người nuôi tôm đau đầu với việc cân bằng chi phí sản xuất. Theo báo cáo tình hình sản xuất và công tác kiểm soát dịch bệnh trên tôm nước lợ, cua nuôi tại các tỉnh ĐBSCL, trong 5 tháng đầu năm 2025, tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi cả nước có xu hướng giảm rõ rệt. Số xã có dịch giảm từ 331 (cùng kỳ 2024) xuống còn 198 xã; diện tích tôm nuôi bị bệnh giảm mạnh từ gần 19.000 ha xuống còn hơn 3.000 ha. Tỷ lệ diện tích bị bệnh hiện chiếm khoảng 4,3%, chỉ bằng một nửa so với năm trước. Tuy nhiên, đây vẫn là nguyên nhân khiến cho vụ tôm nuôi thất bại.
Tại các tỉnh trọng điểm như Cà Mau, Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh và Kiên Giang, một số diện tích vẫn ghi nhận dịch bệnh gây thiệt hại, chủ yếu là các bệnh nguy hiểm như đốm trăng (WSSV), hoại tử gan tụy cấp (AHPND) và vi bào tử trùng (EHP). Riêng Trà Vinh ghi nhận hơn 1.000 ha nuôi bị ảnh hưởng, tương đương 15% diện tích thả nuôi; trong khi Tiền Giang cũng có hơn 1.500 ha thiệt hại, tập trung vào giai đoạn giao mùa mưa.
Biến thách thức thành động lực chuyển đổi
Để giảm áp lực từ chi phí đầu vào, các chuyên gia cho rằng cần sớm có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân phát triển vùng nguyên liệu trong nước, nhất là đẩy mạnh sản xuất đậu tương, ngô, bột cá… Song song với đó, Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất phụ gia TĂCN thay thế, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu.
Trước áp lực chi phí thức ăn thủy sản, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Phát triển công nghiệp chế biến TACN đến năm 2030”, đặt mục tiêu tăng sản lượng lên 24- 25 triệu tấn vào năm 2025 và 30 – 32 triệu tấn vào năm 2030, trong đó ít nhất 70% từ nguyên liệu nội địa.
Nhiều địa phương như Đồng Nai, An Giang, Bạc Liêu đang đẩy mạnh mở rộng vùng nguyên liệu, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp (bã đậu nành, bắp, cám gạo) để sản xuất thức ăn thủy sản. Đồng Nai còn thu hút đầu tư vào công nghệ chế biến và phát triển vùng trồng nguyên liệu chuyên biệt. Việc phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu khiến ngành chăn nuôi dễ tổn thương trước biến động toàn cầu. Để phát triển bền vững, Việt Nam cần từng bước tự chủ nguồn nguyên liệu, với sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học và người chăn nuôi.
Theo các chuyên gia, để nội địa hóa nguyên liệu hiệu quả, ngành TACN cần đồng thời đầu tư hạ tầng, đổi mới công nghệ và có chính sách tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp. Nếu không có giải pháp căn cơ, ngành tôm vốn đã chịu áp lực dịch bệnh và biến đổi khí hậu, sẽ tiếp tục đối mặt với rủi ro chi phí và mất lợi thế cạnh tranh xuất khẩu.
Một số tập đoàn lớn như C.P. Việt Nam, De Heus… đang triển khai mô hình liên kết với nông dân, hỗ trợ giống, thức ăn và công nghệ để giảm chi phí đầu vào. Tuy nhiên, đề ra những sáng kiến này lan tỏa, cần sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người nuôi.
Bên cạnh đó, cần thúc đẩy các mô hình nuôi tôm tiết kiệm chi phí, ứng dụng công nghệ để tối ưu sử dụng thức ăn, giảm phát thải và tăng năng suất. Việc hỗ trợ nghiên cứu và cảnh báo dịch bệnh cũng là yếu tố quan trọng giúp người nuôi giảm tổn thất và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Trần My
- Diễn đàn đổi mới ngành chăn nuôi lợn Việt Nam – Trung Quốc: Điểm hẹn chăn nuôi an toàn và bền vững
- Nghệ An: Chủ động thu hoạch tôm sớm trước mùa bão
- Cà Mau đẩy mạnh liên kết trong sản xuất, tiêu thụ tôm
- Phú Yên: Nuôi kết hợp sá sùng với tôm thẻ chân trắng
- Diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 8.965ha
- Đầu tư nhà lưới, người nuôi tôm Nghệ An thích ứng với thời tiết nắng nóng
- Cà Mau: Phát triển mạnh nuôi tôm sinh thái
- Skretting Việt Nam: Ký kết MoUs thúc đẩy nuôi trồng thủy sản bền vững tại ĐBSCL
- Doanh nghiệp tôm giống Bình Thuận trước thách thức di dời
- Ngành thủy sản chủ động ứng phó, thích ứng linh hoạt với mưa lũ
Tin mới nhất
T3,12/08/2025
- Ba nhà máy thức ăn nuôi tôm đạt chứng nhận ASC
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 8/2025
- Khi “thủ phủ tôm” căng buồm ra biển lớn – Bài 1: Nhân đôi thế mạnh
- 180 lô tôm hùm giống nhập khẩu được kiểm tra, giám sát
- Bộ NN&MT đề xuất cắt giảm nhiều thủ tục hành chính
- Nghệ An: Chủ động thu hoạch tôm sớm trước mùa bão
- Chiến lược kiểm soát từ gốc: Nhiều thay đổi từ thị trường tôm sú giống
- Miễn, giảm thuế cho nhiều doanh nghiệp thủy sản
- Cà Mau: Làm thế nào để phát triển sản xuất đột phá ngành hàng tôm?
- Thức ăn công nghệ cao – hướng đi mới cho an toàn sinh học trong sản xuất giống tôm
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Người nuôi tôm phập phồng với “ngày nắng, đêm mưa”
- Động lực phát triển đột phá ngành thủy sản
- Công nghệ sinh học toàn diện: Giải pháp nuôi tôm thành công từ Tâm Việt
- Biện pháp kiểm soát khí độc Nitrite (NO2) trong mô hình nuôi tôm TLSS-547
- Ngành chức năng và nông dân Quảng Nam cùng gỡ khó cho nuôi tôm nước lợ
- Thời tiết bất lợi gây thiệt hại hơn 27 triệu con tôm sú, tôm thẻ nuôi
- [Tuyển dụng] – Công ty TNHH Seven Hills Trading tuyển dụng nhiều vị trí hấp dẫn trong năm 2025
- Nhiều diện tích tôm nuôi của Nghệ An bị bệnh đốm trắng
- Nuôi tôm càng xanh VietGAP: Giảm chi phí, tăng lợi nhuận
- Thời tiết bất lợi, người nuôi tôm treo đùng
- An toàn sinh học: Giải pháp then chốt cho bài toán dịch bệnh thủy sản
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân