Những con số về sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm, cá

Kháng sinh, bao gồm cả những loại thuộc nhóm kháng sinh sử dụng của con người bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã được sử dụng phổ biến và rộng rãi trong ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam.

Tất cả kháng sinh sử dụng cho chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam đều là nhập khẩu dưới dạng nguyên liệu và thành phẩm. Theo Depart- ment of Animal Health, khoảng 2.000 tấn kháng sinh thô đã được nhập khẩu mỗi năm.

Tính đến tháng 1/2019, có 13.000 lượt các sản phẩm thuốc được phép sử dụng tại Việt Nam trong đó phần lớn là sản phẩm kháng sinh. Có 1.500 thuốc thú y sản phẩm được phép sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, các sản phẩm kháng khuẩn không chiếm tỷ trọng lớn.

Trong nuôi trồng thủy sản, 72% cá và trang trại nuôi tôm đã sử dụng ít nhất một loại kháng sinh để điều trị bệnh hoặc kích thích tăng trưởng ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng trong Việt Nam.

Mua bán thuốc kháng sinh không kê đơn đã được xác định là một yếu tố chính cho mức độ cao của sử dụng kháng sinh góp phần làm tăng tình trạng kháng kháng sinh tại Việt Nam.


Mua bán thuốc kháng sinh không kê đơn mang đế nhiều rủi ro trong nuôi trồng thủy sản. Ảnh: Tép Bạc

Nhiều công trình nghiên cứu đã được tiến hành dựa trên kiến thức, thái độ và thực hành của nông dân cũng như rủi ro đối với kháng kháng sinh. Các gen và vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh đều đã được được tìm thấy trong các sản phẩm nuôi trồng thủy sản của Việt Nam.

Các môi trường nước là ổ chứa tiềm tàng của vi khuẩn kháng kháng sinh teria. Việc sử dụng kháng sinh trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng vấn đề kinh tế và sức khỏe.

Một nghiên cứu trên 60 con tôm, mẫu lấy từ chợ địa phương ở thành phố Nha Trang, phía Nam Duyên Hải Miền Trung Việt Nam, cho thấy 55 % Escherichia coli mang gen kháng kháng sinh với nhiều loại kháng sinh.

Vi khuẩn kháng kháng sinh có thể phát triển và lây lan giữa các loài động vật sản xuất thực phẩm và con người thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc thông qua thực phẩm chuỗi và môi trường. Do đó, kháng kháng sinh là một vấn đề đa ngành vì vi khuẩn kháng kháng sinh có thể lây lan thông qua con người tiếp xúc trực tiếp với động vật hoặc thông qua chuỗi thức ăn và môi trường.


Vi khuẩn kháng kháng sinh có thể phát triển và lây lan giữa các loài động vật sản xuất thực phẩm và con người. Ảnh: VnExpress

Bắt đầu từ tháng 1/2018 cấm bổ sung kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi (Thông tư số 06/2016/TT-BNNPTNT ngày ngày 31 tháng 5 năm 2016). Theo Thông tư số 10/2016/TT – BNNPTNT ngày 01/06/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD), có là 24 loại hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, trong đó có Enrofloxacin và Ciprofloxacin.

Theo lệnh cấm cụ thể sử dụng kháng sinh, chưa có nghiên cứu nào khám phá việc tuân thủ pháp luật.


Theo MARD, có là 24 loại hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, trong đó có Enrofloxacin và Ciprofloxacin. Ảnh: Vietnam Net

Gần đây một cuộc khảo sát trên tổng số 360 trại nuôi cá và 360 trại nuôi tôm các trang trại được chọn từ bảy tỉnh, bao gồm Hải Phòng, Nam Định và Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Đắk Lắk và Bình Định ở miền Trung; Đồng Nai và Đồng Tháp ở phía Nam.

Kết quả cho thấy kháng sinh được sử dụng rộng rãi trong các trang trại nuôi cá (64%), nhưng ít phổ biến hơn trong nuôi tôm (24%). Trong trang trại nuôi cá, có 11 loại kháng sinh (23 loại kháng sinh khác nhau) được sử dụng để điều trị và phòng ngừa.

Các nhóm kháng sinh phổ biến nhất là Phenicol (11%), tiếp theo là Tetracycline (10%) và Sulfonamide (7%). Trang trại nuôi tôm, có sáu loại kháng sinh (10 loại kháng sinh khác nhau) được sử dụng. Kháng sinh phổ biến nhất các lớp là Tetracycline (21 %).


Trang trại nuôi tôm, có sáu loại kháng sinh (10 loại kháng sinh khác nhau) được sử dụng. Ảnh: chephamthongminh.com

Kết quả khảo sát cho thấy hai mục đích chính của kháng sinh là điều trị vật nuôi bị bệnh và phòng chống dịch bệnh. Sử dụng kháng sinh trong xử lý chiếm 83% ở trang trại nuôi tôm và 88% trang trại nuôi cá. Tỷ lệ sử dụng kháng sinh trong các trang trại nuôi cá thâm canh cao hơn 5,2 lần (95%CI 3,2–8,5) so với trang trại cá.

Điều kỳ lạ đối với việc tham khảo ý kiến của các chuyên gia trước khi sử dụng kháng sinh trong các trang trại nuôi tôm thâm canh là cao hơn 3,4 lần (95%CI 2,2–5,4) so với trang trại quảng canh trong khi tỷ lệ sử dụng là 4,2 lần (95%CI 2,6–6,9) so sánh nuôi tôm thâm canh với nuôi quảng canh.


Tỷ lệ sử dụng kháng sinh trong các trang trại nuôi cá thâm canh cao hơn 5,2 lần so với trang trại cá. Ảnh: onehealthtrust.org

Những kết quả này có thể được sử dụng để hỗ trợ xây dựng chính sách nhằm quản lý sử dụng kháng sinh và giảm kháng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản.

Chính phủ cần ban hành các thông tư, quy định về đơn thuốc thú y ban đầu cho các nhà cung cấp thuốc thú y và nông dân nuôi trồng thủy sản. Đơn thuốc thú y nên được yêu cầu với chẩn đoán bệnh và kiểm tra độ nhạy cảm với kháng sinh trước khi sử dụng kháng sinh. Chính phủ- nhà nước cũng cần giám sát và quản lý chất lượng thuốc thú y trên thị trường.

Thiết lập chẩn đoán bệnh quốc gia và tiếp cận với kháng sinh chất lượng. Quảng cáo không sử dụng kháng sinh để cải thiện an toàn sinh học và giảm sử dụng chúng. Nghiên cứu và ứng dụng các lựa chọn thay thế cho kháng sinh như các biện pháp điều trị bệnh bao gồm an toàn sinh học, tiêm phòng, sử dụng chế phẩm sinh học.

Hồng Huyền

Tepbac.com

Tin mới nhất

T7,18/05/2024