Năm xoay trục ngành thủy sản: Từ lượng sang chất

[Người Nuôi Tôm] – Năm 2025 đang đi đến những ngày cuối cùng, khép lại một chặng đường đầy biến động và mở ra hành trình mới đặt ngành thủy sản Việt Nam nói chung, ngành tôm nói riêng trước yêu cầu tự soi chiếu chính mình để bước vào thời kỳ phát triển dựa trên chất lượng, công nghệ và quản trị rủi ro. Việc nhận diện rõ những dấu mốc quan trọng của năm nay là cơ sở để toàn ngành hoạch định chiến lược cho mùa vụ 2026.

Năm 2025 đánh dấu một giai đoạn bản lề của ngành tôm Việt Nam, khi toàn ngành vừa phải đối mặt với “bão kép

 

Trụ cột chi phối

Năm 2025 chứng kiến những biến động sâu sắc, nhiều gam màu, vừa cảnh báo vừa gợi mở. Đây là giai đoạn mà mọi mắt xích từ con giống, vùng nuôi, hạ tầng chế biến đến xuất khẩu đều chịu tác động đồng thời, tạo nên một năm đầy thách thức. Điển hình, thiên tai 2025 được đánh giá là khắc nghiệt nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tính đến hết tháng 11/2025, đã có 21 cơn bão/ATNĐ (15 bão, 06 ATNĐ) hoạt động trên Biển Đông và trở thành năm có số lượng bão/ATNĐ hoạt động nhiều nhất trên Biển Đông kề từ khi có số liệu quan trắc (từ năm 1961).

Trong năm 2025, tình hình lũ lụt nghiêm trọng đã xảy ra trên diện rộng, với mực nước đỉnh lũ trên các sông vượt mốc lịch sử ở cả Bắc Bộ, Trung Bộ, cao nguyên Trung Bộ, hạ lưu sông Cửu Long. Trong tháng 10 – 11/2025, các cơn bão số 10, 11, 13 và mưa lũ đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng và trên diện rộng đối với lĩnh vực nuôi trồng và khai thác thủy sản tại các tỉnh miền Trung. Tổng diện tích nuôi thiệt hại: khoảng 1.848 ha, trong đó 1.745 ha nuôi mặn lợ và 110 ha nuôi nước ngọt. Tổng số lồng bè hư hỏng, cuốn trôi: 23.004 ô lồng, tương ứng khoảng 331.293m³ lồng. Số hộ dân bị ảnh hưởng: hơn 4.045 hộ nuôi. Thiệt hại ước tính (5.290 tỷ đồng) . Riêng 3 tỉnh Khánh Hòa – Đắk Lắk – Gia Lai báo cáo tổng hợp đến 28/11/2025: 4.032 tỷ đồng (sau mưa lũ).

Song song với thiên tai, áp lực thuế quan tạo thêm tầng bất định mới cho xuất khẩu. Từ đầu năm 2025, Hoa Kỳ áp mức thuế tham chiếu tới 46% với tôm Việt Nam, khiến giá nguyên liệu giảm, đơn hàng chững lại, doanh nghiệp bi quan. Việc điều chỉnh thuế xuống 20% từ tháng 8 giúp thị trường Hoa Kỳ ấm lên nhưng vẫn cao hơn đối thủ như Ecuador (15%) hay Indonesia (19%). Tâm điểm rủi ro vẫn nằm ở kết quả POR19 cuối năm 2025, nếu thuế chống bán phá giá chạm mức 35%, nhiều doanh nghiệp có thể rời thị trường Hoa Kỳ.

Ngoài ra, dịch bệnh cũng tiếp tục là lực cản lớn. Theo cơ sở dữ liệu VAHIS và báo cáo tổng hợp của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, đến cuối tháng 10, cả nước có 285 xã thuộc 18 tỉnh công bố dịch bệnh thủy sản, tổng thiệt hại 6746 ha. Nhiều địa phương có tỷ lệ tổn thất cao: Vĩnh Long hơn 40%, Hưng Yên gần 18%, TP. HCM hơn 15%, Quảng Ninh hơn 12%. Tôm sú và tôm thẻ chân trắng tiếp tục là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nhất, với hơn 4.127 ha tôm sú và gần 2.134 ha tôm thẻ chân trắng bị bệnh. Các bệnh hoại tử gan tụy cấp, đốm trắng, hoại tử cơ… vẫn chiếm tỷ lệ cao.

Nghệ An là một ví dụ điển hình. Tại xã Trung Lộc, những hộ gắn bó hàng chục năm với nghề nuôi tôm đang trải qua giai đoạn khó khăn nhất. Ông Nguyễn Quốc Huy, người có hơn 25 năm gắn bó với nghề, cho biết chưa bao giờ thấy bất an như hiện nay. Hai ao nuôi rộng hơn 3000 m2 vốn là nguồn thu chính, nhưng sau đợt lũ lớn, ông buộc phải bỏ trống một ao và chỉ dám thả giống cầm chừng ở ao còn lại. Đầu vụ thả 10 vạn con nhưng lũ cuốn đi gần hết, thu hoạch muộn chỉ được khoảng 50 triệu đồng, không đủ bù chi phí gấp ba bốn lần.

Rủi ro thiên tai kéo theo nhiều nguy cơ thứ phát. Nguồn nước lấy từ sông Đập Mộc chảy qua Khu công nghiệp Nam Cấm làm tăng nguy cơ ô nhiễm; bệnh đường ruột, gan, đục cơ, hồng thân xuất hiện thường xuyên dù đã xử lý nước kỹ. Riêng ông Huy từng mất trắng hai vụ năm 2019, một do lũ, một do bệnh hồng thân bùng phát. Gần đây, tôm lại mắc bệnh nấm khiến chậm lớn và đội chi phí; riêng đợt điều trị vừa qua, ông phải dùng 4 thùng thuốc và khoáng trị giá khoảng 30 triệu đồng nhưng hiệu quả vẫn chưa rõ rệt.

 

Đón sóng vượt bão kép

Năm 2025 đánh dấu một giai đoạn bản lề của ngành tôm Việt Nam, khi toàn ngành vừa phải đối mặt với “bão kép”, vừa nỗ lực tái cấu trúc theo hướng công nghệ, bền vững và giá trị gia tăng. Thay vì mở rộng quy mô, các địa phương và doanh nghiệp chuyển mạnh sang nâng chất lượng, tối ưu mô hình nuôi và ứng dụng công nghệ nhằm thích ứng với bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Nhiều năm nay ĐBSCL đã phát triển mô hình nuôi tôm không phát thải, nuôi tôm sinh thái. Các mô hình đưa đến kết quả rất tốt. Nuôi tôm 3 giai đoạn:  Giai đoạn 1 ương mật độ 5000 con/m2 trong 20 ngày, giai đoạn 2 nuôi mật độ 2.500 con/m2 trong 30 ngày và giai đoạn 3 nuôi tăng trưởng với mật độ 60 con/m2 trong 30 ngày; năng suất đạt khoảng 60 tấn/ha/vụ với tôm 26 con/kg; tính ra, FCR đạt 1,1. Một số nơi nuôi tôm và nuôi thêm các loài khác như cá rô phi, cá đối, rong men, rong câu đều đạt kết quả khá. Một số doanh nghiệp triển khai mô hình Tomgoxy, xem ao nuôi như một “phản ứng sinh học”, kết hợp ao tảo, ao xử lý nước, năng lượng mặt trời và rừng đước giúp giảm phát thải tới 120 tấn CO2 mỗi ha.

Bên cạnh khâu nuôi, công nghệ chế biến phụ phẩm tôm phát triển nhanh, hình thành chuỗi giá trị mới phục vụ nuôi trồng và xử lý môi trường. Nhiều sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao như peptide tôm (cải thiện hấp thu dinh dưỡng và sức khỏe đường ruột), chitosan (kháng khuẩn, tăng miễn dịch), astaxanthin (chống oxy hóa, tăng màu sắc), hay probiotics (cải thiện môi trường nước) đã được thương mại hóa và ứng dụng rộng rãi trong nuôi tôm và các đối tượng thủy sản khác.

Trong bức tranh thương mại, số liệu tổng hợp cho thấy một bức tranh đa diện, nơi những con số tăng trưởng ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu song hành cùng những thách thức nội tại gay gắt về chi phí sản xuất, dịch bệnh và áp lực cạnh tranh quốc tế. Xuất khẩu tôm năm 2025 duy trì tăng trưởng tốt, riêng tháng 10 đạt 498 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ; lũy kế 10 tháng đạt 3,9 tỷ USD, tăng 22%. Trung Quốc và Hồng Kông tiếp tục là thị trường tăng mạnh nhất, đạt 1,1 tỷ USD, tăng 64%; riêng tháng 10 ghi nhận 140 triệu USD. Khối CPTPP đạt hơn 1 tỷ USD, tăng 33%, nhờ nhu cầu ổn định tại Nhật Bản, Canada và Australia. Hoa Kỳ đạt 702 triệu USD, tăng 9%; còn EU đạt 487 triệu USD, tăng 20%. Đáng chú ý, châu Á trở thành động lực tăng trưởng quan trọng nhất, khi Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc đều duy trì nhu cầu tốt.

Sự đa dạng hóa thị trường này giúp doanh nghiệp giảm bớt phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ trong bối cảnh thuế quan gia tăng. Dù xuất khẩu có thể giảm tốc trong quý cuối năm, ngành tôm năm 2025 vẫn ghi nhận những chuyển dịch quan trọng. Ba trụ cột gồm phục hồi nhu cầu từ các thị trường lớn, tăng tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng và sự phổ biến của công nghệ nuôi hiện đại đã giúp ngành vượt qua biến động ngắn hạn và tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn. Nếu duy trì được các hướng đi này, ngành tôm Việt Nam có cơ hội bước vào một chu kỳ phát triển bền vững hơn, ít phụ thuộc vào giá tôm thế giới và các cú sốc bên ngoài.

Tại buổi họp báo thường kỳ tháng 11, Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, từ nay đến hết tháng 12 cần tiếp tục duy trì đà tăng trưởng của toàn ngành, đồng thời phải chuẩn bị thật tốt cho quý I/2026 – giai đoạn “khởi đầu nhưng cũng là về đích” của cả năm. Trong bối cảnh thời cực đoan ngày càng khó lường, nếu không chủ động từ sớm, sản xuất sẽ luôn bị đặt trong thế bị động, phụ thuộc vào hỗ trợ và cứu trợ.

Ao nuôi tôm công nghệ cao ở vùng ven biển cùng hệ thống ao lắng xử lý nước thải, giúp nâng cao hiệu quả và bảo vệ môi trường

 

Chuyển cũ đổi mới

Năm qua ngành tôm Việt đã có bước chuyển mình quan trọng, khi tăng trưởng không thuần túy chỉ dựa vào nhu cầu thị trường mà được thúc đẩy bởi những thay đổi nội tại về mô hình sản xuất, tiêu chuẩn và chiến lược thị trường. Song song với những tín hiệu tích cực, ngành vẫn phải đối diện với hàng loạt rào cản mới, đặc biệt là quy định môi trường ngày càng khắt khe như EUDR của châu Âu và các biện pháp phòng vệ thương mại từ Hoa Kỳ, đòi hỏi phải tái cơ cấu toàn diện để đảm bảo khả năng cạnh tranh lâu dài.

Bước sang giai đoạn 2026 – 2030, bối cảnh được dự báo sẽ khó khăn hơn. Những xung đột địa chính trị và xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ có thể khiến giá vật tư, nhiên liệu tiếp tục leo thang, đẩy chi phí sản xuất tăng mạnh. Biến đổi khí hậu cũng diễn biến tiêu cực hơn, với hạn hán, nắng nóng, xâm nhập mặn xảy ra dày đặc, làm tăng nguy cơ dịch bệnh và giảm hiệu quả nuôi. Trong khi đó, chất lượng tôm giống vẫn là điểm nghẽn lớn, khi các bệnh như vi bào tử trùng hay mờ đục tôm tiếp tục gây thiệt hại đáng kể.

Con đường hướng tới một ngành tôm xanh và bền vững vì vậy không hề đơn giản. “Thiên tai khốc liệt đã bộc lộ rõ những điểm yếu trong tổ chức sản xuất thủy sản hiện nay. Nhưng từ trong gian khó, những giải pháp căn cơ, dài hạn đang dần được định hình. Việc khôi phục không chỉ là làm lại cái đã mất, mà là tái thiết một nền sản xuất thủy sản an toàn hơn, thích ứng hơn và bền vững hơn trước những biến động ngày càng khắc nghiệt của thiên nhiên”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.

Tuy vậy, những cơ hội mới cũng đang hình thành. Các nguồn tài chính xanh của những tổ chức quốc tế, cùng làn sóng ứng dụng công nghệ số như AI, cảm biến IoT, phân tích dữ liệu lớn đang giúp hoạt động nuôi hiệu quả hơn, giảm rủi ro và nâng cao năng suất. Để ngành tôm tiến xa hơn trong năm 2026 và những năm tiếp theo, cần phát huy đồng thời các lợi thế sẵn có và khắc phục triệt để các điểm yếu. Nhìn tổng thể, năm 2025 có thể xem là năm bản lề, đánh dấu quá trình chuyển đổi từ “tăng trưởng theo lượng” sang “tăng trưởng theo chất”. Sự thành công trong giai đoạn tới sẽ phụ thuộc vào khả năng thích ứng và đổi mới không ngừng của toàn chuỗi giá trị, từ người nuôi, doanh nghiệp đến hệ thống chính sách.

Phương Nhung

Tin mới nhất

T3,23/12/2025