Kết nối dữ liệu ngành tôm: Giải pháp then chốt để kiểm soát dịch bệnh

[Người Nuôi Tôm] – Trong 10 tháng đầu năm 2025, mặc dù dịch bệnh trên tôm không bùng phát mạnh, nhưng vẫn gây không ít khó khăn cho người nuôi. Để giảm thiểu tác động của dịch bệnh, việc kết nối và chia sẻ dữ liệu trong ngành tôm là yếu tố then chốt để duy trì sự ổn định.

Dịch bệnh vẫn gây ra không ít khó khăn cho người nuôi tôm trong năm 2025 (Ảnh: Phạm Huệ)

 

Những năm gần đây, tuy ngành tôm luôn có sự tăng trưởng tích cực nhưng hiệu quả kinh tế của người nuôi lại không tăng tương ứng, mà một trong số nguyên nhân là do sự xuất hiện của một số loại bệnh nguy hiểm, làm cho tỷ lệ thành công giảm, chi phí tăng… Vì vậy, việc sớm nhận diện dịch bệnh nguy hiểm cũ cũng như bệnh phát sinh mới nhằm chủ động biện pháp phòng trị hiệu quả là vấn đề hết sức quan trọng không chỉ giúp đảm bảo hiệu quả cho người nuôi, mà còn an toàn cho môi trường và giữ vững tốc độ tăng trưởng của toàn ngành.

  

Nhận diện bệnh cũ, mới

Báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư tại Hội thảo “Giải pháp phòng, trị một số bệnh nguy hiểm và bệnh mới nổi trong nuôi thủy sản”, tổ chức ngày 7/11/2025 tại Cần Thơ, cho thấy, trong 10 tháng đầu năm 2025, tuy tình hình dịch bệnh trên tôm không đáng kể nhưng cũng gây không ít khó khăn cho người nuôi. Các bệnh chủ yếu gồm: bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp trên tôm, bệnh phân trắng, EHP… Nguyên nhân được xác định do biến động môi trường, mật độ nuôi cao, con giống chưa được kiểm soát chặt chẽ và thời tiết cực đoan.

Đồng tình với báo cáo trên, TS. Trần Hữu Lộc, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, cho biết mầm bệnh tuy còn nhiều nhưng cũng có một số loại bệnh trước đây gây thiệt hại rất nghiêm trọng nay đã giảm đi rất nhiều. TS. Lộc nêu dẫn chứng: “Từ năm 2023, bắt đầu rộ lên dịch bệnh TPD, nhưng đến thời điểm này, chúng ta có thể thấy tình hình đã lắng dịu đi rất nhiều. Tương tự như thế, đối với bệnh EMS, sau thời gian đầu bùng phát mạnh và gây thiệt hại nặng nề cho ngành tôm đến nay cũng đã lắng xuống”.

Phân tích sâu hơn về học thuật, TS. Lộc cho rằng, đó là vì độc lực của chủng virus gây những loại bệnh này đã giảm nhiều so với lúc đầu, do chúng đã có sự biến đổi trong môi trường sống vốn dĩ đã có rất nhiều chủng virus khác. Có thể ví sự bùng phát của những loại vi khuẩn độc lực cao gây bệnh EMS hay TPD như một đám cháy rừng. Giai đoạn đầu, đám cháy thường rất dữ dội nhưng sau đó sẽ yếu dần thông qua những tác động từ con người và các yếu tố xung quanh. Tuy nhiên, tôm nuôi thời gian qua vẫn thường hay bị thiệt hại do dịch bệnh chủ yếu là do trong môi trường nuôi vốn dĩ tồn tại nhiều mầm bệnh nguy hiểm, chỉ chực chờ sức đề kháng của tôm giảm đi là chúng sẽ tấn công và gây thiệt hại cho tôm nuôi.

 

Truy tìm nguồn gốc

Mầm bệnh nguy hiểm hiện nay làm người nuôi đau đầu nhất, theo TS. Lộc chính là EHP. Nguyên nhân là do EHP không làm tôm chết nhanh, chết nhiều, mà chỉ làm tôm yếu đi, tạo điều kiện cho các mầm bệnh cơ hội tấn công vào con tôm và một trong số đó là bệnh phân trắng. Mầm bệnh EHP được phát hiện có trong thức ăn tươi sống dành cho tôm bố mẹ và chúng được lây truyền sang tôm post. Ngoài ra, còn có sự tương tác giữa các mầm bệnh với nhau do mầm bệnh gần như luôn có trong ao nuôi, nhưng do chưa đủ mật số hay điều kiện môi trường chưa thuận lợi nên không bị phát hiện. Chúng tồn tại trong ao nuôi và chỉ chờ khi điều kiện thuận lợi sẽ bùng phát và gây bệnh cho tôm.

Đối với bệnh phân trắng cũng có nhiều nguyên nhân, nhưng thường có điểm chung là do: ao phú dưỡng, sụp tảo… tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển và những loại vi khuẩn này đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp gây nên bệnh phân trắng. “Khi vi khuẩn phát triển đến một ngưỡng nào đó chúng sẽ bắt đầu gây bệnh cho tôm nuôi, hoặc tôm đã bị nhiễm một số loại bệnh nền, như EHP chẳng hạn. Có thể nói, bệnh phân trắng chính là hệ quả cuối cùng của quá trình bội nhiễm, chứ không phải là tác nhân đầu tiên, tương tự như bệnh lao trên người vậy, TS. Lộc kết luận.

EHP vẫn là vấn đề nan giải với người nuôi tôm hiện nay (Ảnh: Phạm Huệ)

 

An toàn sinh học là trên hết

TS. Lê Văn Khoa, Giám đốc Đối ngoại Công ty Grobest Việt Nam, cho rằng trong công tác phòng, trị bệnh trong nuôi thủy sản, vấn đề quan trọng có tính then chốt hiện nay là đảm bảo công tác an toàn sinh học tại các cơ sở nuôi thủy sản. Trong công tác này, ngoài các yếu tố về kỹ thuật thì việc quản lý con người trong các cơ sở nuôi là rất quan trọng. TS. Khoa nêu thực trạng: “Thực tế thời gian qua cho thấy, việc quản lý con người trong cơ sở nuôi chỉ được thực hiện nghiêm ngặt trong thời điểm có dịch, còn khi dịch bệnh giảm đi, hoặc không có dịch thì thì việc quản lý con người không còn được duy trì một cách nghiêm ngặt”.

Một vấn đề nữa trong đảm bảo an toàn sinh học cơ sở nuôi, theo TS. Khoa là việc thiết kế trang trại. Đây là vấn đề thường ít được chủ cơ sở nuôi quan tâm, nên đa phần việc thiết kế thường được thực hiện theo hình thức copy qua lại của nhau. “Là một đơn vị có nhiều năm kinh nghiệm trong việc thiết kế trại nuôi, nên đến giờ này, tôi có thể khẳng định một điều rằng, không có một thiết kế chung nào cho tất cả các trại nuôi, mà chỉ có nguyên tắc chung trong thiết kế mà thôi”. TS. Khoa chia sẻ.

Rất đồng tình với đánh giá, nhận định của TS. Khoa, TS. Lộc đề xuất: “Đối với các farm nuôi, cần quan tâm nhiều hơn đến việc thiết kế công trình nuôi; trong đó, vấn đề cao trình của ao nuôi là rất quan trọng”.

Thứ hai là hạ tầng xử lý nước. TS. Lộc cho rằng, nếu khâu xử lý nước không được thực hiện tốt thì coi như thua chắc. Đây là vấn đề rất quan trọng, nhưng cũng rất khó khăn đối với những hộ nuôi nhỏ lẻ, vì nếu như diện tích đất không đủ lớn, thì diện tích dành cho xử lý nước sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu. Chúng ta không nên chỉ nhìn vấn đề bệnh trên tôm nuôi ở góc độ một mầm bệnh, mà cần nhìn rộng ra nhiều lý do hơn, như vấn đề tôm bị strees hay biến động môi trường chẳng hạn, vì đây mới là gốc rễ của vấn đề gây nên dịch bệnh trên tôm. “Ví dụ như những ngày gần đây, thời tiết luôn có mưa lớn, kéo dài, môi trường ao nuôi sẽ có sự biến động mạnh, nên chắc chắn vài ngày tới, bệnh đốm tráng sẽ bùng phát mạnh tại các vùng nuôi. Vì vậy, ngay từ bây giờ, người nuôi cần chủ động ngay các biện pháp phòng bệnh đốm trắng cho tôm”. TS. Lộc nêu thực tế.

 

Cần kết nối, chia sẻ dữ liệu dịch bệnh

Để phòng bệnh EHP theo TS Lộc, việc đánh giá dịch bệnh ngay từ tôm giống là yếu tố then chốt ban đầu. Để hạn chế mầm bệnh EHP ngay từ con giống, rất cần có cơ chế hỗ trợ cho việc xây dựng các cơ sở sản xuất nguồn thức ăn tươi sống cho tôm bố mẹ đủ lớn, mà cụ thể ở đây là các trại nuôi dời. Đây vốn được xem là một trong những điểm nghẽn đầu tiên của ngành tôm. Nếu chúng ta giải tốt vấn đề nguồn dời tại chỗ, mầm bệnh EHP sẽ không có cơ hội để tồn tại trên tôm bố mẹ để lây truyền sang tôm post. Một vấn đề nữa là phải giữ cho được mật số vi khuẩn có lợi ở mức hợp lý ngay từ đầu thì mới đủ sức hạn chế được dịch bệnh xảy ra trong quá trình nuôi. Chúng ta không thể diệt hết vi khuẩn, nên vấn đề giữ cân bằng hợp lý giữa vi khuẩn có lợi với vi khuẩn có hại là điều hết sức quan trọng trong công tác phòng chống dịch bệnh cho tôm.

Theo TS Khoa, các số liệu dịch bệnh từ các doanh nghiệp, các LAP tư nhân, các Viện, Trường… là rất lớn, nhưng chưa có sự kết nối với cơ sở dữ liệu chung của đơn vị thú y Trung ương hay địa phương. Chỉ tính riêng Công ty Grobest Việt Nam, mỗi năm chi khoảng 200.000 USD cho việc nghiên cứu, thống kê, thu thập dữ liệu dịch bệnh thủy sản nên có thể nói đến nay, nguồn số liệu này là không nhỏ. Để công tác thu thập dữ liệu dịch bệnh được đa dạng, chính xác, việc lấy mẫu xét nghiệm rất cần có sự tham gia của các Viện, Trường, doanh nghiệp… Việc làm này cũng giúp cho công tác quản lý, kết nối, chia sẻ thông tin dữ liệu được rộng rãi hơn, hiệu quả hơn.

Đánh giá cao các ý kiến tham luận, ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, kết luận với ba nhiệm vụ trọng tâm: thứ nhất, nhận diện sớm rủi ro và tổ chức các hội thảo chuyên đề; thứ hai, chuyển sang phòng bệnh chủ động, xây dựng vùng và cơ sở an toàn dịch bệnh; thứ ba, tăng cường kết nối hệ thống, huy động viện, trường tham gia chẩn đoán, xét nghiệm và xây dựng quy trình phòng trị. Trong thời gian tới, Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, hoàn thiện chính sách an toàn sinh học, nghiên cứu vaccine, giải pháp sinh học và công nghệ nuôi tuần hoàn, góp phần nâng cao hiệu quả, an toàn và phát triển bền vững cho ngành thủy sản Việt Nam.

Hoàng Nhã

Tin mới nhất

T2,22/12/2025