Chất kết dính từ vỏ đậu nành: Giải pháp tiết kiệm và thân thiện môi trường cho thức ăn tôm

[Người Nuôi Tôm] – Chất kết dính viên thức ăn có nguồn gốc từ vỏ đậu nành không chỉ giúp tăng độ bền viên, giảm hao hụt dinh dưỡng mà còn góp phần giảm ô nhiễm nước, mở ra triển vọng mới cho sản xuất thức ăn thủy sản xanh và kinh tế tuần hoàn.

Chất kết dính từ vỏ đậu nành là giải pháp tiết kiệm và thân thiện môi trường cho thức ăn tôm

 

Trong khi ngành nuôi tôm thâm canh toàn cầu đối mặt với áp lực về chi phí và yêu cầu bảo vệ môi trường, các nhà khoa học thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đã phát triển một giải pháp đột phá là chất kết dính viên thức ăn có nguồn gốc từ vỏ đậu nành.

Thông qua quy trình xử lý enzyme và nhiệt hóa học, nhóm nghiên cứu đã tạo ra một loại “chất keo sinh học” có khả năng liên kết chặt các thành phần trong viên thức ăn, duy trì độ bền cơ học cao mà không cần đến các chất tổng hợp như carboxymethyl cellulose (CMC) hay gluten lúa mì. Kết quả thử nghiệm cho thấy, viên thức ăn chứa chất kết dính từ vỏ đậu nành có thể duy trì hình dạng và độ ổn định sau 3 giờ ngâm nước, thời gian đủ để tôm tiêu thụ hết thức ăn. Ở điều kiện 30°C, viên chứa soyhull đạt tỷ lệ hồi phục 75%, vượt xa CMC (31%), tinh bột ngô (11%) và gluten lúa mì (64%). Điều này chứng minh khả năng chống tan rã và giữ dinh dưỡng cao hơn rõ rệt.

Đặc biệt, khả năng giữ protein trong nước của viên thức ăn cũng vượt trội. Sau 12 giờ ngâm ở 22°C, viên chứa chất kết dính đậu nành chỉ mất khoảng 25,9% protein và 45,3% sau 24 giờ, thấp hơn nhiều so với mức 60 – 90% ở các chất kết dính khác. Ngay cả trong điều kiện nhiệt độ cao 30°C, mức tan protein vẫn ổn định, cho thấy hiệu quả bảo toàn dinh dưỡng trong môi trường ao nuôi nhiệt đới.

Nhờ đó, lượng đạm và khoáng thất thoát ra môi trường giảm đáng kể, hạn chế tích tụ amoniac và nitơ – yếu tố gây ô nhiễm và stress cho tôm. Đây là điểm cộng lớn cho các mô hình nuôi tuần hoàn (RAS) hoặc nuôi mật độ cao.

Nhờ đặc tính tan chậm và ổn định, chất kết dính từ vỏ đậu nành giúp giảm 30 – 50% lượng chất thải hữu cơ phát sinh, qua đó giảm tải nitơ và phốt pho trong nước. Việc này không chỉ giảm chi phí xử lý ao nuôi, mà còn giúp người nuôi dễ dàng đạt các tiêu chuẩn môi trường quốc tế như ASC, BAP hay GlobalGAP.

Theo nhóm nghiên cứu, soyhull là nguyên liệu phân hủy sinh học, tái tạo và sản xuất quy mô lớn, hoàn toàn phù hợp với định hướng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp xanh.

Không chỉ đóng vai trò chất kết dính, vỏ đậu nành còn chứa nhiều polyphenol và hợp chất hoạt tính sinh học có tác dụng chống oxy hóa, kháng khuẩn và kích thích miễn dịch. Trong quá trình xử lý enzyme và nhiệt, các hợp chất này được kích hoạt, giúp tăng cường sức đề kháng của tôm. Tôm được cho ăn viên thức ăn chứa chất kết dính đậu nành có số lượng tế bào máu (hemocyte) và hoạt tính enzyme phenoloxidase (proPO) cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng, minh chứng cho khả năng hỗ trợ miễn dịch tự nhiên và giảm rủi ro bệnh tật.

Một trong những ưu điểm lớn nhất của công nghệ này là giá thành sản xuất thấp, chỉ dưới 400 USD/tấn, bao gồm cả chi phí xử lý và đóng gói. So với các chất kết dính truyền thống như gelatin, alginate hay guar gum, chi phí này thấp hơn đáng kể, giúp giảm tổng chi phí thức ăn thủy sản và tối ưu lợi nhuận cho người nuôi. Ngoài ra, việc tận dụng phụ phẩm nông nghiệp góp phần giảm lãng phí tài nguyên, giảm phát thải trong sản xuất công nghiệp, và mang lại lợi ích xã hội khi tạo thêm giá trị cho ngành chế biến đậu nành. Sáng kiến của USDA đã chứng minh tiềm năng to lớn của việc ứng dụng phụ phẩm nông nghiệp trong sản xuất thức ăn thủy sản. Với tính tự nhiên, dễ phân hủy và khả năng tái tạo cao, sản phẩm này hứa hẹn trở thành chất kết dính xanh tiêu chuẩn trong ngành thức ăn thủy sản, mở đường cho mô hình nuôi tôm bền vững, tiết kiệm và thân thiện môi trường.

Trần My (Lược dịch)

Tin mới nhất

T2,24/11/2025