Ngành tôm giống: Mô hình tăng trưởng dựa trên số lượng đã đến giới hạn

[Người Nuôi Tôm] – Trong 5 năm qua, sản lượng giống tôm nước lợ hàng năm đạt từ 152 – 160 tỷ con, trong đó giống tôm sú khoảng 38 – 42 tỷ con, tôm thẻ chân trắng 106 – 118 tỷ con, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và một phần phục vụ xuất khẩu.

Đó là những thông tin được ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ NN&MT) chia sẻ tại Hội nghị “Phát triển tôm giống nước lợ”, ngày 16/10, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức.

Ông Lê Văn Quê, Chủ tịch Hiệp hội Giống Thủy sản Ninh Thuận – Khánh Hòa

Phát biểu tại Hội nghị, ông Lê Văn Quê, Chủ tịch Hiệp hội Giống Thủy sản Ninh Thuận – Khánh Hòa chia sẻ, khu vực Nam Trung Bộ, đặc biệt là Ninh Thuận – Khánh Hòa, từ lâu được xem là “thủ phủ tôm giống của cả nước”, nhưng hiện đang đối mặt với nhiều thách thức mang tính cấu trúc, không thể giải quyết bằng các biện pháp đơn lẻ.

Về nội tại, ngành vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu, trong khi công nghệ sản xuất chưa đồng đều. Về ngoại tại, dịch bệnh ngày càng phức tạp, biến đổi khí hậu tác động mạnh đến môi trường sản xuất, và tình trạng giống trôi nổi, kém chất lượng đang làm xói mòn lòng tin của thị trường.

Ông nhấn mạnh, mô hình tăng trưởng dựa trên số lượng đã đến giới hạn, cần chuyển sang mô hình phát triển dựa trên chất lượng, công nghệ và liên kết chuỗi giá trị. Hiệp hội đề xuất chiến lược “Ba trụ cột” cho sự phát triển bền vững, gồm:

Kinh tế Xanh: Xây dựng thương hiệu “tôm giống sạch chuẩn hóa”, phát triển “Thương hiệu tôm giống Ninh Thuận” được Cục Sở hữu trí tuệ chứng nhận, hướng đến sản phẩm sạch bệnh và thân thiện môi trường.

Kinh tế Tuần hoàn: Thúc đẩy ứng dụng công nghệ tuần hoàn nước (RAS), năng lượng tái tạo và mô hình tái sử dụng chất thải, giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế.

Chuyển đổi số: Xây dựng cơ sở dữ liệu chung của Hiệp hội, triển khai truy xuất nguồn gốc điện tử bằng Blockchain/QR Code, đảm bảo minh bạch chuỗi cung ứng và nâng cao quản trị.

Bên cạnh đó, Hiệp hội đưa ra bốn nhóm kiến nghị trọng tâm:

  1. Tháo gỡ thủ tục hành chính về cấp phép khu nuôi dưỡng, cách ly tôm bố mẹ nhập khẩu, đề xuất khôi phục cơ chế cấp giấy chứng nhận có hiệu lực dài hạn để giảm chi phí, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
  2. Chính sách tài chính – đất đai – thị trường: Xây dựng gói “tín dụng xanh”, quy hoạch vùng sản xuất giống công nghệ cao và tăng cường xử lý nghiêm tình trạng giống kém chất lượng.
  3. Phát triển khoa học công nghệ và tự chủ nguồn gen: Đề nghị Bộ Khoa học & Công nghệ cùng Bộ Nông nghiệp đặt hàng các đề tài chọn tạo tôm bố mẹ kháng bệnh, thích ứng khí hậu, giao cho các Viện Nghiên cứu Thủy sản I, II, III thực hiện.
  4. Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước địa phương: Sớm ban hành hướng dẫn về phân cấp, phối hợp giữa các cấp chính quyền và tập huấn cho cán bộ cơ sở trong lĩnh vực thủy sản.

Ngành tôm hướng tới chủ động nguồn giống chất lượng cao

 

Tại hội nghị, các đại biểu đã trình bày nhiều báo cáo, tham luận chuyên sâu về hiện trạng, công tác quản lý, nghiên cứu, chọn tạo và lưu giữ nguồn gen tôm bố mẹ. Tuy nhiên, tỷ lệ giống chất lượng cao, truy xuất được nguồn gốc còn hạn chế; nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, phân tán; năng lực kiểm soát dịch bệnh và giám sát di truyền còn chưa đồng bộ.

Các tham luận cũng chỉ rõ, hiện Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu, trong khi nguồn tôm chọn giống trong nước mới đáp ứng được khoảng 10–15% nhu cầu. Điều này làm gia tăng chi phí sản xuất và tiềm ẩn rủi ro về dịch bệnh, chất lượng di truyền. Do đó, việc chủ động nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh, chọn lọc di truyền tốt là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo phát triển bền vững ngành tôm.

Cục Chăn nuôi và Thú y và các Chi cục Thủy sản địa phương đã tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng tôm giống trước khi lưu thông. Hệ thống kiểm dịch, xét nghiệm mầm bệnh được mở rộng, góp phần hạn chế rủi ro dịch bệnh. Tuy nhiên, tình trạng tôm giống trôi nổi, chưa qua kiểm dịch vẫn tồn tại, gây khó khăn cho quản lý. Các địa phương đề xuất siết chặt quy trình cấp phép, truy xuất và gắn tem điện tử cho tôm giống lưu thông.

Tại hội nghị, doanh nghiệp và hiệp hội ngành tôm phản ánh khó khăn trong nhập khẩu tôm bố mẹ, đặc biệt về thủ tục và chi phí kiểm dịch. Nhiều ý kiến kiến nghị Nhà nước ưu tiên đầu tư hạ tầng sản xuất giống tập trung, hỗ trợ nghiên cứu chọn tạo, bảo tồn nguồn gen trong nước và tăng cường hợp tác công – tư để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị giống.

Ngành tôm Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 chủ động 100% nguồn giống bố mẹ, phát triển ít nhất 5 dòng tôm chọn giống chất lượng cao và xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc đồng bộ, hiện đại, hướng tới phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Cẩm Anh

Tin mới nhất

T5,23/10/2025