Hội thảo tham vấn giải pháp phòng, chống dịch bệnh trên tôm, cua tại ĐBSCL

Sáng ngày 10/6/2025, tại tỉnh Cà Mau – thủ phủ nuôi trồng thủy sản của cả nước – Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cà Mau tổ chức Hội thảo “Đề xuất các giải pháp phòng, chống dịch bệnh trên tôm nước lợ, cua biển tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)”. Hội thảo thu hút sự tham gia của hàng trăm đại biểu là các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân đến từ nhiều tỉnh, thành khu vực phía Nam.

Hội thảo tham vấn giải pháp phòng, chống dịch bệnh trên tôm, cua tại ĐBSCL

ĐBSCL: Vùng trọng điểm sản xuất tôm, cua nhưng đối diện nhiều thách thức dịch bệnh

Theo báo cáo trình bày tại hội thảo, ông Nguyễn Văn Hữu – Quyền Trưởng phòng Quản lý bệnh thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư, vùng ĐBSCL hiện là trung tâm sản xuất thủy sản lớn nhất cả nước, chiếm tới 70% diện tích và 65% sản lượng nuôi trồng. Riêng tôm nước lợ và cá tra là hai sản phẩm chủ lực, đóng góp lần lượt 959 nghìn tấn và 1,78 triệu tấn vào tổng sản lượng thủy sản năm 2024.

Đáng chú ý, mặc dù dịch bệnh trên tôm và cua trong 5 tháng đầu năm 2025 có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm trước, song tình hình hiện tại vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Cụ thể, số xã có dịch đã giảm từ 331 xuống còn 198, diện tích bị ảnh hưởng cũng giảm mạnh từ gần 19.000 ha xuống chỉ còn hơn 3.000 ha so với cùng kỳ. Tuy nhiên, theo các đại biểu, những con số khả quan này chưa phản ánh đầy đủ nguy cơ tiềm ẩn, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, môi trường nuôi ngày càng bất ổn và công tác giám sát bệnh trên cua biển chưa được tổ chức bài bản.

“Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường vẫn chưa có hệ thống giám sát dịch bệnh trên cua biển. Các dữ liệu chủ yếu dựa trên báo cáo của địa phương. Điều này là rào cản lớn trong việc xây dựng giải pháp phòng bệnh hiệu quả và cảnh báo sớm,” ông Hữu nhấn mạnh.

 

Những vấn đề nổi cộm trong kiểm soát dịch bệnh

Tại hội thảo, các đại biểu đến từ Cục Chăn nuôi và Thú y, Trung tâm Thú y vùng VII, Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ), cùng đại diện Sở Nông nghiệp các tỉnh như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang… đã chia sẻ thực trạng về công tác kiểm dịch, giám sát và điều trị bệnh.

Một trong những điểm đáng chú ý là sự gia tăng của các bệnh nguy hiểm trên tôm và cua trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt trong mùa khô và giai đoạn chuyển mùa. Trên cua biển, mặc dù chưa có thống kê toàn diện, nhưng báo cáo từ Cà Mau cho thấy tỷ lệ thiệt hại có thể lên tới 30 – 35% tại các huyện ven biển. Tác nhân được xác định bước đầu là ký sinh trùng Fortonion, ký sinh trong xoang thâm cua.

Trong khi đó, với tôm nước lợ, những bệnh như đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, phân trắng… vẫn tiếp tục gây thiệt hại đáng kể, đặc biệt là trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Việc kiểm soát các bệnh này gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân: giống không đảm bảo chất lượng, thức ăn và chế phẩm sinh học kém hiệu lực, điều kiện môi trường ô nhiễm, và đặc biệt là sự thiếu hụt dữ liệu dịch tễ học đáng tin cậy.

 

Giải pháp đồng bộ từ quản lý đến khoa học – công nghệ

Trước thực trạng trên, hội thảo đã đi sâu phân tích các định hướng lớn trong công tác phòng, chống dịch bệnh trên tôm và cua biển, nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về chuyển đổi từ bị động sang chủ động trong phòng dịch.

Về thể chế và tổ chức, các chuyên gia nhấn mạnh sự cần thiết trong việc kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về thú y thủy sản từ Trung ương đến địa phương. Cần xây dựng một hệ thống thống nhất từ trung ương đến cơ sở, có khả năng điều phối và giám sát linh hoạt, hiệu quả. Đây là nền tảng để triển khai đồng bộ các biện pháp kiểm soát dịch bệnh.

Về kỹ thuật và khoa học công nghệ, hội thảo đề xuất đẩy mạnh nghiên cứu dịch tễ học nhằm hiểu rõ hơn về cơ chế lây lan và đặc điểm sinh học của các loại bệnh nguy hiểm. Bên cạnh đó, cần xây dựng quy trình an toàn sinh học phù hợp với từng vùng nuôi khác nhau. Việc ứng dụng công nghệ số trong giám sát dịch bệnh, thu thập dữ liệu và phát hiện sớm cũng được xác định là xu thế không thể thiếu.

Về hạ tầng và kiểm soát môi trường, một trong những giải pháp trọng tâm là hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi tập trung, đặc biệt là hệ thống cấp – thoát nước và xử lý nước thải. Kết hợp giữa giám sát chủ động và quản trị môi trường tổng thể sẽ giúp kịp thời phát hiện và kiểm soát các yếu tố rủi ro sinh học từ sớm.

Cuối cùng, về nâng cao nhận thức cộng đồng, cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông, đào tạo, tập huấn cho người nuôi. Ngoài ra, hội thảo cũng đề xuất xây dựng cơ chế khuyến khích người dân báo cáo dịch bệnh, đồng thời kêu gọi sự tham gia nhiều hơn từ khu vực tư nhân trong chia sẻ thông tin, ứng phó và xử lý dịch bệnh.

Ông Nguyễn Văn Hữu khẳng định: “Chúng ta phải chuyển từ tư duy ‘chữa bệnh’ sang tư duy ‘phòng bệnh’. Không thể phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững nếu chỉ chạy theo xử lý hậu quả mà không kiểm soát được nguyên nhân.”

 

Doanh nghiệp và nhà khoa học cùng nhập cuộc

Đáng chú ý, hội thảo lần này còn có sự tham gia tích cực của các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp lớn như Đại học Nông Lâm TP.HCM, Đại học Cần Thơ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, cùng các công ty như Minh Phú, Việt Úc, … Các đơn vị này đã chia sẻ những kết quả nghiên cứu mới nhất về bệnh nguy hiểm và công nghệ chọn giống sạch bệnh, kỹ thuật ương nuôi an toàn sinh học.

Phát biểu tham luận tại hội thảo, ông Trình Trung Phi, đại diện Công ty Việt Úc nhấn mạnh: “Chọn giống sạch bệnh và kiểm soát chặt chẽ trong khâu ương là chìa khóa giảm thiểu nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Từ năm 2023, chúng tôi đã thử nghiệm mô hình nuôi trong hệ thống tuần hoàn khép kín, kết hợp tảo sống và men vi sinh, giúp tôm đạt tỷ lệ sống trên 90%.”

Song song, các mô hình nuôi thương phẩm hiệu quả cũng được trình bày. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia giới thiệu một số mô hình nuôi tôm – cua kết hợp, tôm – lúa tại Trà Vinh, Bạc Liêu, giúp hạn chế dịch bệnh do cải thiện chất lượng môi trường và cắt đứt vòng đời mầm bệnh.

Sau một ngày làm việc nghiêm túc, hội thảo đã thống nhất một số khuyến nghị quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống dịch bệnh trong nuôi tôm và cua tại ĐBSCL.

Thứ nhất, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần sớm xây dựng hệ thống giám sát dịch bệnh trên cua biển, tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia để có cái nhìn toàn diện hơn và đưa ra cảnh báo kịp thời.

Thứ hai, các địa phương cần tăng cường công tác kiểm tra chất lượng đầu vào, bao gồm tôm giống, thức ăn và chế phẩm sinh học. Việc kiểm tra này nên gắn liền với đẩy mạnh các mô hình liên kết chuỗi giữa nông dân – doanh nghiệp – nhà khoa học.

Thứ ba, cần ưu tiên đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đặc biệt là ứng dụng công nghệ số trong giám sát môi trường, dịch bệnh và truy xuất nguồn gốc.

Thứ tư, đẩy mạnh truyền thông, đào tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng là yếu tố then chốt. Cần hình thành mạng lưới cảnh báo dịch bệnh từ cơ sở, nơi người dân không chỉ là đối tượng tiếp nhận thông tin mà còn chủ động báo cáo và phối hợp xử lý.

Kết luận hội thảo, ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhấn mạnh: “Để nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc chiến với dịch bệnh. Mỗi tỉnh, mỗi doanh nghiệp, mỗi nông hộ đều cần chung tay xây dựng một hệ sinh thái nuôi an toàn, gắn kết và chủ động thích ứng với mọi thách thức từ môi trường.”

Hải Đăng

Nguồn: https://tongcucthuysan.gov.vn/