Xu hướng nuôi trồng thủy sản ở châu Á năm 2019

[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Các chuyên gia tư vấn nuôi trồng thủy sản và môi trường Jonah van Beijnen và Gregg Yan đã phác thảo ra một số những tiến triển chủ chốt mà họ mong đợi sẽ diễn ra trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản châu Á trong năm 2019.

TIẾP CẬN PHƯƠNG TÂY

Tầng lớp trung lưu hiện đang tăng mạnh ở Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều quốc gia đang phát triển khác thúc đẩy nhu cầu về hải sản phương Tây có giá trị cao như cá hồi Đại Tây Dương – được nuôi truyền thống hoặc đánh bắt tự nhiên ở những vùng lạnh hơn. Trung Quốc đang trở thành nhà nhập khẩu cá hồi lớn với 70,000 tấn cá hồi/ năm chủ yếu được nhập khẩu từ Chile, Đan Mạch và Na Uy. Để giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu và vấn đề về giá, người nông dân Trung Quốc đang cố gắng nuôi cá hồi Salmon với tập tính di cư đặc trưng và một số loài cá hồi ôn đới ít di cư hơn thuộc họ Trout.

Trong số các dự án cá hồi thì tham vọng nhất là một trang trại trị giá 143,9 triệu USD hiện đang được tiến hành tại Hoàng Hải bằng việc sử dụng một chiếc lồng cao 30 mét và rộng 180 mét. Đây là lồng chìm lớn nhất thế giới, có thể thay đổi độ sâu từ 4-50m để có được nhiệt độ tối ưu. Nhà điều hành Wanzefeng Fishery nhắm tới mục tiêu sản xuất 1,600 tấn cá hồi vào năm 2020 với kế hoạch nâng sản lượng lên 20,000 tấn mỗi năm. Một trang trại khác được chính phủ hỗ trợ đang nhằm mục đích sản xuất 20,000 tấn trong trong một hệ thống nuôi trồng thủy sản nội địa tuần hoàn RAS (một hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn được sử dụng trong hồ thủy sinh gia đình và sản xuất cá nơi trao đổi nước bị hạn chế và việc sử dụng lọc sinh học là cần thiết để giảm độc tính amoniac) ở Ninh Ba, miền đông Trung Quốc.

Cơ hội cho sự hợp tác ngày càng tăng khi rất nhiều phần của những dự án này được thực hiện với sự hỗ trợ của các chuyên gia và các nhà cung cấp công nghệ nuôi trồng thủy sản châu Âu. Các công ty Trung Quốc cũng đang xem xét đầu tư trực tiếp vào các nhà sản xuất cá hồi nước ngoài, với ưu tiên hàng đầu là phân phối và tiếp thị. Điều này là vô cùng khôn ngoan khi Trung Quốc đã sẵn sàng để trở thành nhà tiêu dùng cá hồi hàng đầu trên thế giới.

TRANG TRẠI NUÔI TÔM THÔNG MINH HƠN

Ngành nuôi tôm Đông Nam Á đã có nhiều vận may trong những năm gần đây sau khi tăng lên từ dưới 1 triệu tấn vào năm 1995 tới 7,8 triệu tấn vào năm 2016. Thật không may, trang trại tôm truyền thống là một trong những tác nhân phá hoại môi trường nước mặn và hệ thống sinh thái biển, đặc biệt là rừng ngập mặn.

Một giải pháp ngày càng phổ biến là nuôi tôm bằng kỹ thuật nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS). Tại Thái Lan, Charoen Pokphand Foods đang tìm cách sản xuất tất cả tôm thẻ chân trắng bằng RAS trong nhà vào năm 2023, giảm đáng kể cả về tiêu thụ nước hay ô nhiễm đồng thời cũng giảm thiểu nguy cơ mắc các loại bệnh điển hình thường gặp đến từ nước ven sông.

Theo phó chủ tịch điều hành của CP Food Premsak Wanuchsoontorn: “Trong tương lai, các trang trại nuôi tôm sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào tự động hóa để tiết kiệm thời gian cho con người và giảm ô nhiễm nước”.

Ngày càng nhiều công ty tôm châu Á đang theo dõi và nhận ra rằng RAS, cùng với tự động hóa, có thể làm tăng sản lượng.

XpertSea, nhà cung cấp công nghệ Canada, cũng mở đường hệ thống quản lý với AI dẫn đầu để tối ưu hóa sản xuất, giảm dịch bệnh bùng phát và đáp ứng thời hạn sản xuất một cách đáng tin cậy với hệ thống sử dụng quang học và cơ học. “Đây là một khái niệm mới có khả năng mở khóa hiệu suất ấn tượng cho những người nuôi tôm và cá. Đó là vấn đề về tạo ra nhiều hơn hay ít hơn” Giám đốc điều hành Valeria Robitaille lưu ý.

Các phương pháp nuôi tôm thẻ chân trắng tới đây hiện vẫn đang được khám phá, với năng suất cao hơn và tác động sinh thái thấp hơn. © Gregg Yan / Giải pháp thay thế tốt nhất.

Nhiều tiến bộ hơn trong công nghệ với mục đích giúp cho người nuôi tôm có nhiều lợi ích hơn trong khi vẫn kiểm soát được các tác động.

GIA TĂNG NUÔI CÁC LOÀI CÁ ĂN THỊT CÓ GIÁ TRỊ CAO

Ngày nay, nuôi trồng thủy sản châu Á tiếp tục hướng tới việc nuôi thâm canh các loài cá ăn thịt có giá trị cao hơn như tôm, cá mú, cá ngừ hay cá hồi, theo thống kê của FAO.

Mặc dù tạo ra nhiều lợi nhuận hơn nhưng những loài ăn thịt này cũng có tỷ lệ tiêu thụ thức ăn cao hơn, dao động từ khoảng 2:1 đối với cá hồi (nghĩa là 2kg bột cá được sử dụng để tăng thêm 1kg trọng lượng) lên đến 18:1 đối với cá ngừ vây xanh.

Điều này có nghĩa là thay vì chỉ đơn giản là tăng sản lượng thủy sản toàn cầu, các hình thức nuôi trồng thủy sản này có thể tiêp tục ăn vào các nguồn hải sản hoang dã khi các loại cá ăn tạp có giá trị thấp luôn cần thiết trong việc duy trì việc nuôi các loài ăn thịt có giá trị cao. Với việc khối lượng đánh bắt tự nhiên bị đình trệ từ cuối những năm 1980 thì đây chính là một mối quan tâm lớn bởi vì nguồn cá hoang dã có thể biến đổi thành loại thức ăn có giá thành cao hơn.

Cá chép vẫn là loài cá được nuôi rộng rãi nhất ở châu Á, nhưng các loài săn mồi cũng đang được tăng cường sản xuất.

THAY ĐỔI VỀ THỨC ĂN

Hoạt động nuôi trồng nhằm mục đích sản xuất ra được nhiều hải sản nhất chỉ với một khối lượng nước nhất định trong thời gian ngắn nhất với chi phí thấp nhất. Những hệ thống nuôi trồng thủy sản đầu tiên là các ao đơn giản có thể duy trì những loài ăn cỏ như cá chép, với rất ít hoặc không có đầu vào bổ sung. Và ở châu Á, hệ thống trang trại rộng rãi này vẫn đang rất phổ biến cho đến tận gần đây. Tuy nhiên, ngày nay đã có sự xuống dốc nghiêm trọng đối với phân chia thức ăn không cân bằng trong nuôi trồng hải sản.
Mặc dù thức ăn cho những con cá chép này là từ thực vật và có dấu chân môi trường thấp hơn so với thực ăn từ bột cá, thức ăn từ thực vật lại đòi hỏi cần phải có một vùng đất rộng lớn, cùng với lượng nước, phân bón và nguyên liệu đáng kể để chế biến và vận chuyển. Một trong số các loại cây được sử dụng làm thức ăn cho cá ăn thực vật là lúa, ngô, đậu nành cùng với thảm thực vật nổi như lục bình và bèo. Sự thay đổi này đem lại cơ hội lớn cho các nhà sản xuất thức ăn và các công ty đang phát triển những thành phần thức ăn thay thế, đi kèm với đó là tác động đến môi trường thấp hơn, như nấm men và tảo có thể tổng hợp axit béo Omega-3 và Omega-6.

Hàng năm, việc tăng nuôi trồng thủy sản có đóng góp không nhỏ cho sản xuất thủy sản toàn cầu.

Ngành này đã tạo ra 110,2 triệu tấn trong năm 2016, trị giá 243 tỷ USD và chiếm 53% nguồn cung thủy sản thế giới. Theo dữ liệu của FAO, 90% sản lượng được sản xuất ở châu Á. Để tối đa hóa tăng trưởng đầu tư đồng thời giảm thiểu tác động đến sinh thái, ngành cần chú trọng và phân tích những cơ hội sắp tới.

Những nỗ lực khác để giảm sự phụ thuộc vào cá tạp làm thức ăn đang được thực hiện. Một nghiên cứu của Đại học Stanford chỉ ra rằng việc sử dụng các sản phẩm phụ bị loại bỏ từ các nhà máy chế biến hải sản Trung Quốc có thể làm giảm sự phụ thuộc vào cá tạp của quốc gia từ 30 – 70% – đặc biệt là khi các thành phần như tảo hoặc men được thêm vào hỗn hợp.

CP Foods của Thái Lan đã hạ thành công hàm lượng bột cá trong thức ăn cho tôm từ 35% xuống chỉ còn 7% vào năm 2017 bằng cách tìm nguồn cung ứng từ sự kết hợp giữa các nhà máy sản xuất phụ phẩm thủy sản và ngành công nghiệp bột cá đã được chứng nhận.

Những con cá nhỏ như cá mòi và cá cơm vẫn chiếm một phần đáng kể trong sản xuất bột cá và dầu cá. Các lựa chọn thay thế từ nấm men và tảo có thể làm giảm sự phụ thuộc của nuôi trồng thủy sản vào đánh bắt cá tự nhiên.

QUAN TÂM NHIỀU HƠN ĐẾN MÔI TRƯỜNG

Tất cả những xu hướng trên đây rõ ràng đã cho chúng ta thấy dấu chân của môi trường ngày một tăng lên đối với nuôi trồng thủy sản châu Á. Với việc Trung Quốc và Đông Nam Á chịu trách nhiệm tới 90% sản lượng toàn cầu, đây là việc có thể gây ra nguy hiểm nếu không được kiểm soát chặt chẽ – tuy nhiên những “ông lớn” đã nhận ra điều này và đang thực hiện các bước tiến để hạn chế tác động lên sinh thái.

Chẳng hạn như, chính phủ Trung Quốc đang cố gắng chuyển từ nuôi trồng thủy sản nước ngọt nội địa sang nuôi trồng thủy sản ngoài khơi và ngăn chặn các hoạt động nuôi trồng thủy sản bất hợp pháp và gây ô nhiễm. Trong một động thái táo bạo, họ đã ra lệnh loại bỏ tất cả 45,000 lồng cua ở phía đông hồ Thái Hồ vào tháng 12 năm 2018 để bảo vệ chất lượng nước của hồ, đồng thời khuyến khích các nhà khai thác chuyển sang nuôi trồng hải sản ngoài khơi. Việt Nam cũng đang xem xét giá trị của việc mở rộng thay vì nuôi trồng thâm canh, với việc tạo ra sản lượng thủy sản thấp hơn nhưng ít ảnh hưởng đến môi trường sống ven sông và rừng ngập mặn.

Nuôi trồng thủy sản vừa phát triển vừa trưởng thành. Những xu hướng mới nổi này cho thấy những người nông dân, nhà sản xuất thức ăn và nhà đầu tư có thể lập kế hoạch và chuẩn bị cho năm tới.

Đào Thanh (tổng hợp)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tin mới nhất

T2,25/11/2024