Theo nghiên cứu của Võ Hồng Tú và cộng sự (2024), ngành nuôi tôm đóng góp khoảng 83% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của ĐBSCL. Năm 2020, nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL đạt kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD, riêng tôm đạt 3,8 tỷ USD. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích kinh tế, hoạt động nuôi tôm cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường, đặc biệt là vấn đề chất thải gây ô nhiễm nguồn nước.
Ảnh: ST
Nuôi tôm ở ĐBSCL tập trung chủ yếu tại tám tỉnh ven biển – gồm Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau, Long An, Tiền Giang, Bến Tre và Trà Vinh. Trong đó, bốn tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, và Sóc Trăng chiếm tới 89,07% tổng diện tích nuôi tôm của toàn vùng.
Khảo sát bốn tỉnh trên, nhóm Võ Hồng Tú phát hiện, lượng chất thải dinh dưỡng thừa từ quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm sú là rất lớn. Cụ thể, lượng dư thừa đạm và lân (tính theo đơn vị gây phú dưỡng) từ nuôi tôm thẻ là 1.154,30 kg/ha, còn từ nuôi tôm sú là 859,06 kg/ha.
Các chất dinh dưỡng thừa này chủ yếu đến từ thức ăn không được tôm hấp thụ hết. Lượng đạm tôm hấp thụ chỉ chiếm 20-31% trong thức ăn, lượng lân hấp thụ chỉ 10-13%. Phần còn lại bị thải ra môi trường dưới dạng chất thải hòa tan trong nước hoặc lắng đọng trong bùn đáy. Mức độ gây ô nhiễm từ hai loại hình nuôi tôm cũng khác nhau. Hiệu quả môi trường trung bình của nuôi tôm thẻ chân trắng đạt 29,9%, nghĩa là tạo ra khoảng 70% chất thải dinh dưỡng. Con số này ở nuôi tôm sú thấp hơn, chỉ 15,8%, tức tạo ra tới 84% chất thải dinh dưỡng.
Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ nông dân đạt hiệu quả môi trường cao chỉ chiếm một phần rất nhỏ – 0,34% đối với nuôi tôm thẻ và 0,87% đối với nuôi tôm sú. Theo nhóm Võ Hồng Tú, một số nông dân đạt hiệu quả môi trường cao trong nuôi tôm là nhờ áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến như công nghệ biofloc (bể lọc sinh học). Công nghệ này giúp chuyển hóa phần lớn chất thải của tôm thành thức ăn có thể sử dụng lại thông qua quá trình tổng hợp của vi sinh vật. Nhờ đó, chất dinh dưỡng dư thừa được liên tục tái sử dụng, giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, các hộ nuôi tôm theo hướng hữu cơ, giảm sử dụng kháng sinh và hóa chất sẽ hạn chế được dư lượng chất độc hại trong nước thải.
Tuy nhiên, đa số nông dân nuôi tôm vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tác hại môi trường hoặc chưa có điều kiện đầu tư công nghệ xử lý chất thải phù hợp. Họ chủ yếu tập trung vào mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế hơn là giảm thiểu tác động môi trường.
Với lượng chất thải khổng lồ như vậy, thực sự cần có những biện pháp quản lý môi trường nghiêm ngặt để kiểm soát ô nhiễm từ hoạt động nuôi tôm. Dựa trên quan điểm của Monnin, có thể thấy những hạn chế trong cách nhìn nhận và xử lý vấn đề chất thải nuôi tôm hiện nay ở ĐBSCL như sau:
Thứ nhất, việc đánh giá hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm thường chỉ dựa trên các chỉ tiêu về năng suất, sản lượng, lợi nhuận trước mắt mà chưa tính đến các chi phí môi trường, xã hội lâu dài. Thực tế, nếu tính đủ chi phí để xử lý triệt để lượng nước thải khổng lồ và khắc phục hậu quả ô nhiễm lâu dài, có lẽ nhiều hộ nuôi tôm sẽ không còn lãi. Nhưng việc “nội hóa” chi phí môi trường như một phần của giá thành sản phẩm vẫn rất cần thiết. Các chính sách về phí xả thải, thuế môi trường đặt ra yêu cầu cao hơn về xử lý nước thải có thể khiến nhiều hộ nuôi tôm gặp khó khăn trước mắt nhưng lại có lợi về dài hạn.
Thứ hai, các giải pháp xử lý chất thải nuôi tôm hiện nay thường mang tính cục bộ, tại chỗ. Nước thải được xử lý sơ bộ rồi thải trực tiếp ra sông, biển, chứ chưa được kiểm soát, quản lý ở quy mô lưu vực. Các hộ nuôi tôm hoạt động riêng lẻ, phần lớn chưa coi trọng việc xử lý chất thải hoặc nếu có áp dụng các biện pháp xử lý nước thải thì cũng chỉ nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu.
Trong khi đó, các dòng chất thải thường lan truyền, gây ảnh hưởng trên phạm vi rộng. Chất thải nuôi tôm có thể bị cuốn trôi, gây ô nhiễm nguồn nước ở những vùng khá xa so với nơi xả thải. Mức độ tác động cũng có thể kéo dài qua nhiều năm do quá trình lắng đọng, tích tụ. Vì vậy, cần có cơ chế phối hợp liên vùng, liên tỉnh trong giám sát, quản lý chất lượng nước và xử lý ô nhiễm tổng hợp cho các lưu vực sông chính ở ĐBSCL.
Một khía cạnh quan trọng nữa là khái niệm “tài nguyên chung tiêu cực” nhấn mạnh mức độ cần thiết phải thực hiện “quy trình định giá” công khai, khoa học để đánh giá chính xác các chi phí, lợi ích thực sự của ngành nuôi tôm, cả về kinh tế lẫn môi trường. Từ đó, có thể ra các quyết định về duy trì hay cắt giảm ngành sản xuất này một cách công bằng và khả thi cho tất cả các bên liên quan.
Theo: Khoahocvaphattrien.vn
- Hợp tác để phát triển bền vững vùng nuôi tôm công nghệ cao
- Thái Lan: Giá tôm đạt kỷ lục sau nhiều năm
- Ấn Độ: Sản lượng tôm ổn định dù diện tích nuôi thu hẹp
- Điện gió ảnh hưởng đến nguồn nước nuôi tôm ở Bạc Liêu
- Trà Vinh: Giá tôm thương phẩm tăng, người nuôi có lợi nhuận khá
- Thanh Hóa: Người nuôi tôm thiệt hại hơn 2 tỷ đồng do mưa lũ
- Bạc Liêu bất lợi gì khi xây dựng trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước?
- Ong: Nhân tố kháng khuẩn mới trong nuôi trồng thủy sản
- Ngành tôm sú tại Bangladesh: Tiềm năng và thách thức
- Chuyển đổi xanh ngành thủy sản tại Hội nghị quốc tế Aquaculture Vietnam
Tin mới nhất
T7,05/10/2024
- Hợp tác để phát triển bền vững vùng nuôi tôm công nghệ cao
- Thái Lan: Giá tôm đạt kỷ lục sau nhiều năm
- Ấn Độ: Sản lượng tôm ổn định dù diện tích nuôi thu hẹp
- Phương pháp sản xuất EM từ chế phẩm gốc
- Điện gió ảnh hưởng đến nguồn nước nuôi tôm ở Bạc Liêu
- Trà Vinh: Giá tôm thương phẩm tăng, người nuôi có lợi nhuận khá
- Thanh Hóa: Người nuôi tôm thiệt hại hơn 2 tỷ đồng do mưa lũ
- Bạc Liêu bất lợi gì khi xây dựng trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước?
- Ong: Nhân tố kháng khuẩn mới trong nuôi trồng thủy sản
- Tối đa hóa lợi nhuận với saponin trong thức ăn thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Sản xuất tôm giống Cà Mau chỉ đáp ứng 50% nhu cầu
- Giá tôm lao dốc, nông dân gặp khó
- Inforgraphic: Ngành tôm 6 tháng đầu năm 2024
- Nghệ An: Ứng dụng công nghệ quản lý tự động các yếu tố môi trường trong nuôi tôm thẻ chân trắng 3 giai đoạn
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
- CEO Chuang Jie Cheng: Vị thuyền trưởng – chắc chèo vững lái vượt sóng thành công
- Loay hoay ‘bài toán’ thiếu hụt nguyên liệu ở ngành thủy sản
- Ra mắt bộ 3 cuốn sách Toàn cảnh ngành chăn nuôi, thú y, thủy sản Việt Nam
- Nhiều mặt hàng thủy sản xuất khẩu bứt phá tăng trưởng cao
- Vướng mắc tại các thị trường nhập khẩu thủy sản lớn
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Long Thăng: Triển khai chương trình “Tôm to xế xịn 2023”
- Hiệu quả vượt trội với mô hình nuôi cá điêu hồng Thăng Long
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt