Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Lợi ích mô hình nuôi lồng, bè mang lại cho người nuôi/người dân là đáng kể, chính vì vậy, mật độ lồng nuôi tăng hàng năm, cùng với đó là mật độ cá thả trong lồng cũng tăng. Hệ lụy từ vùng nuôi quá tải, kết hợp với sự biến động thời tiết do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã gây ra những thiệt hại không nhỏ cho người nuôi, trong đó dịch bệnh xảy ra được ghi nhận ảnh hưởng lớn đến sản lượng và năng suất cá nuôi sau thu hoạch.

Để hạn chế dịch bệnh xảy ra làm thiệt hại cho bà con, chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng tại một số tỉnh phía Bắc nhằm giúp bà con có giải pháp phòng chống bệnh được tốt hơn.

I. Bệnh do vi rút gây bệnh trên cá nuôi lồng, bè và biện pháp phòng bệnh

1. Một số bệnh do vi rút gây bệnh trên cá nuôi lồng, bè

a. Bệnh do vi rút KHV (Koi Herpesvirus)

Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Cá chép bị bệnh do vi rút KHV

– Tác nhân gây bệnh: Do vi rút thuộc họ Herpesviridae
– Đối tượng chính nhiễm bệnh: Cá chép và cá chép cảnh
– Dấu hiệu bệnh: Cá thường nổi đầu, bơi tách đàn, mang bị tổn thương hoại tử có các đốm đỏ hoặc trắng, trên thân xuất hiện nhiều nhớt xuất huyết, có các đốm rộp phồng, các cơ quan bên trong thường bị xuất huyết, bóng hơi sưng, cá bị bệnh ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá.
– Mùa vụ xuất hiện bệnh:Cá thường bị bệnh vào mùa xuân khi nhiệt độ nước từ <25oC, bệnh thường lây từ cá sang cá.
– Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR

b. Bệnh do vi rút SCV (Mùa xuân Viremia của Cá chép)
– Tác nhân gây bệnh: Do vi rút thuộc họ họ Rhabdovirus carpio

– Đối tượng chính nhiễm bệnh: Cá chép và họ cá chép

– Dấu hiệu bệnh: Cá có thể bị nhiễm bệnh ở mọi giai đoạn phát triển. Khi bị bệnh, xuất hiện 1 trong các dấu hiệu:
+ Da cá thường có màu nhợt nhạt hoặc có màu đỏ, xuất huyết trên da và các gốc vây.
+ Mắt lồi, mang nhợt nhạt, thối mang hoặc các tia mang kết dính lại với nhau có màu đỏ không tự nhiên.
+ Bụng chướng to, bóng hơi bị teo một ngăn.

– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Sự biến động của nhiệt độ, đặc biệt vào lúc giao mùa thường xảy ra ở cuối mùa đông đầu mùa xuân khi nhiệt độ thấp dưới 18oC

– Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR

c. Bệnh vi rút trên cá trắm cỏ nuôi lồng
– Tác nhân gây bệnh: do Reovirus
– Đối tượng chính nhiễm bệnh: cá trắm cỏ và cá trắm đen
– Dấu hiệu bệnh lý:
+ Dấu hiệu bên ngoài: Da cá màu tối sẫm, cá nổi lờ đờ trên tầng mặt. Khi bệnh nặng cá có biểu hiện mắt lồi, mang nhợt nhạt, nắp mang và vây xuất huyết. Tỷ lệ cá chết cao từ 80-100% sau 2-3 tuần cá trong ao xuất hiện bệnh. Trong mùa dịch cá giống thường xuất hiện sớm hơn cá thịt với vây đuôi chuyển màu đen, bề ngoài thân màu tối đen, hai bên cơ lưng có thể xuất hiện 2 dải sọc màu trắng.
+ Dấu hiệu bên trong: Bóc da cá bệnh nhìn thấy các đốm hoặc đám cơ đỏ xuất huyết, bệnh nặng, cơ toàn thân xuất huyết đỏ tươi, đây là dấu hiệu đặc trưng thường thấy của bệnh. Giải phẫu cơ quan nội tạng nhận thấy: ruột xuất huyết tương đối rõ ràng, một phần ruột hoặc toàn bộ xuất huyết màu đỏ thẫm, thành ruột còn chắc chắn, không hoại tử.

Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Dấu hiệu đặc trưng cá trắm cỏ bị bệnh do vi rút

– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Xuất hiện quanh năm nhưng xuất hiện nhiều nhất ở các tháng giao mùa giữa mùa xuân và mùa hè (tháng 3 – tháng 6), giữa mùa hè và mùa đông (từ tháng 8 – tháng 10).

– Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR, nuôi cấy tế bào.

d. Bệnh vi rút trên cá rô phi
– Tác nhân gây bệnh: Tilapia lake virus (TiLV), vi rút thuộc họ Orthomyxoviridae. Vi rút được miêu tả đầu tiên bởi Eyngor et al. (2014);
– Đối tượng nhiễm bệnh: Cá rô phi
– Dấu hiệu bệnh:
TiLV ảnh hưởng chủ yếu lên cá rô phi giai đoạn giống, tỷ lệ chết của cá rô phi đỏ giai đoạn giống lên đến 90% trong vòng một tháng sau khi thả lồng. Trong khi đó tỷ lệ chết chỉ đạt 9% đối với cá rô phi vằn (O. niloticus) có kích thước từ trung bình đến lớn. Cá mắc bệnh do TiLV gây ra có biểu hiện giảm ăn, màu sắc cơ thể biến đổi (sẫm màu), thay đổi tập tính bơi lội như tập trung ở trên bề mặt, bơi lờ đờ và bơi tách đàn. Ở giai đoạn nhiễm bệnh nặng, trên thân cá xuất hiện các vết lở loét từ dạng điểm đến mảng, mang tái nhợt, mắt bị teo lại hoặc lồi ra, có hiện tượng đục thủy tinh thể, vẩy dựng, bong tróc; đuôi bị ăn mòn.

Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Cá rô phi bị bệnh TiLV

– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Xuất hiện quanh năm.

– Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR, mô bệnh học, nuôi cấy tế bào, lai tại chỗ.

2. Biện pháp phòng bệnh do vi rút trên cá nuôi lồng, bè
Đối với bệnh do vi rút, cần áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp như:
– Sau mỗi vụ nuôi kéo lồng lên bờ vệ sinh lồng bằng cách quét vôi lên khung lồng, lồng lưới được ngâm trong nước vôi sau đó giặt sạch phơi khô.
– Cá giống thả vào lồng nuôi cần phải kiểm tra đầu vào, để loại cá nhiễm mầm bệnh vi rút.
– Trong quá trình nuôi thường xuyên treo túi vôi hoặc viên TCCA hoặc BKD để khử trùng môi trường nước và tiêu diệt mầm bệnh.
– Định kỳ hàng tháng cho cá ăn Vitamin C hoặc bột tỏi để phòng bệnh và tăng sức đề kháng cho cá với liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì sản phẩm.
– Đối với cá bị bệnh chết cần phải được vớt lên nấu chín, hoặc tiêu hủy chôn với 1% vôi bột, không được vớt cá chết bỏ ra sông, suối dễ lây lan từ vùng nuôi này sang vùng nuôi khác.

II. Bệnh do vi khuẩn gây ra trên cá nuôi lồng và biện pháp phòng, trị

1. Bệnh do vi khuẩn Aeromonas spp. trên cá nuôi lồng
– Tác nhân gây bệnh: Vi khuẩn Aeromonas spp.
– Đối tượng nhiễm bệnh: Tất cả các loài cá nuôi nước ngọt, cá nhiễm bệnh ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá.
– Dấu hiệu bệnh: Cá nhiễm bệnh thường có một trong số các dấu hiệu sau: Cá ăn ít, trên thân xuất hiện các đốm đỏ to nhỏ khác nhau, các điểm đốm đỏ sẽ phát triển lớn thành các vết loét. Hai bên thân cá, nhất là vùng bụng bị xuất huyết, ứ máu đỏ bầm, vảy dựng lên. Vây bị xơ rách, cụt, gốc vây xuất huyết, hậu môn viêm đỏ có dịch chảy ra. Khi giải phẫu nhận thấy: gan thận có biểu hiện nhũn mềm, có màu sậm đen, xuất huyết, hoại tử, ruột không có thức ăn chứa đầy hơi, hoại tử có mùi tanh đặc trưng.

Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Vi khuẩn Aeromonas hydrophyla gây bệnh trên cá trắm cỏ

 

Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Cá lăng vàng và cá chiên bị bệnh do vi khuẩn Aeromonas spp.

– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Bệnh xuất hiện quanh năm, xảy ra nhiều nhất vào các tháng giao mùa.
– Phương pháp chẩn đoán: Nuôi cấy và phân lập vi khuẩn
– Biện pháp phòng, trị bệnh:
+ Biện pháp phòng bệnh: áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp
+ Biện pháp trị bệnh: Khi cá bị bệnh do vi khuẩn Aeromonas spp., biện pháp trị bệnh hiệu quả nhất là dùng kháng sinh nhưng với điều kiện cá vừa chớm bị bệnh chưa bỏ ăn, nếu cá đã chết nhiều thì việc trị bệnh hiệu quả không cao.
+ Trộn thuốc vào thức ăn (nếu cá vẫn còn sử dụng thức ăn) với liều lượng: Doxycycline 5-7 gam/100 kg cá/ngày hoặc Florphenicol liều lượng 4-5 gam/100 kg cá/ngày, ăn liên tục 7-10 ngày kết hợp cho ăn thêm Vitamin C 1 – 2 g cho 100 kg cá bệnh/ngày, ăn liên tục 5 ngày.

*** Lưu ý: Khi sử dụng kháng sinh, để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng thì phải dừng cho cá ăn kháng sinh sau 20 ngày mới được thu hoạch.

2. Bệnh do vi khuẩn Streptococcus spp
– Tác nhân gây bệnh: Vi khuẩn Streptococcus spp.
– Đối tượng nhiễm bệnh: Hầu hết các loài cá nuôi nước ngọt, phổ biến nhất là trên cá rô phi và cá điêu hồng
– Dấu hiệu bệnh: Cá bơi lờ đờ, kém ăn hay bỏ ăn, mắt cá lồi, bơi không định hướng. Giải phẫu cá bị bệnh thấy hiện tượng tích khí ở ruột, ruột không chứa thức ăn, ruột xuất huyết, gan tụ máu, ngoài ra hiện tượng xuất huyết dưới da bụng cũng đã được ghi nhận.

Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Cá rô phi bị nhiễm vi khuẩn Streptococcus spp.

– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Giao mùa giữa mùa hè và mùa thu và các đợt biến động thời tiết nắng to, nhiệt độ cao. Bệnh thường xảy ra và gây chết cá với tỷ lệ chết cao vào các tháng 5 – 9 hàng năm.
– Biện pháp phòng, trị bệnh:
+ Phòng bệnh: Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp
+ Trị bệnh: Dùng Flophenicol hoặc Doxycline hoặc Amoxcilin trộn vào thức ăn cho ăn trong 7 ngày với liều lượng 5-7 gam/100 kg cá/ngày, ăn liên tục 5-7 ngày, kết hợp cho ăn thêm Vitamin C với liều lượng 2-3 gam/100 kg cá/ngày.

*** Lưu ý: Khi sử dụng kháng sinh, để đảm bảo sức khỏe cho người tiều dùng thì phải dừng cho cá ăn kháng sinh sau 20 ngày mới được thu hoạch.

3. Bệnh gan mủ thận trên cá da trơn
– Tác nhân gây bệnh: Vi khuẩn Edwardsiella tarda, E. Ictaluri. Vi khuẩn Edwardisella là vi khuẩn gram âm, hình que mảnh, kích thước 1 x 2-3 mm, không sinh bào tử, chuyển động nhờ vành tiêm mao. Trong nuôi nước ngọt thường gặp hai loài: E. tarda và E. ictaluri.

– Đối tượng nhiễm bệnh: Hầu hết các loài cá nước ngọt, thường gặp nhất ở các loài cá da trơn như cá lăng, cá nheo, cá trê.

– Dấu hiệu bệnh:
+ Xuất hiện những vết thương nhỏ trên da (phía mặt lưng), đường kính khoảng 3-5 mm, những vết thương này sẽ phát triển thành những khối u rỗng bên trong cơ, da bị mất sắc tố, vây đuôi tưa rách.
+ Cá mắc bệnh sẽ mất chức năng vận động do vây đuôi bị tưa rách. Có thể xuất hiện những vết thương bên dưới biểu bì, cơ, các vết thương này bị hoại tử và lây lan rộng sang vùng lân cận.
+ Vi khuẩn E. ictaluri là tác nhân gây bệnh mủ gan cá tra, cá lăng, cá nheo, cá trê… Đây là bệnh nguy hiểm gây chết cá hàng loạt và rất khó điều trị. Giai đoạn gây hại nặng nhất từ cá hương lên giống và từ giống đến dưới 600 g/con. Khi cá nhiễm bệnh, trên gan thận cá xuất hiện các đốm mủ màu trắng lấm tấm.

Cách phòng, trị một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng, bè ở miền Bắc (Phần 1)

Gan cá lăng đen bị đốm trắng do nhiễm vi khuẩn E. ictaluri

– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Xuất hiện vào đợt thời tiết biến động nắng mưa.

– Phương pháp chẩn đoán: Nuôi cấy và phân lập vi khuẩn.

– Biện pháp phòng, trị bệnh:
* Phòng bệnh:
+ Chọn con giống khỏe mạnh, không nhiễm bệnh.
+ Sát trùng các dụng cụ như lưới, vợt, sọt, ống dây bằng Chlorine 10-15g/m3 trong 30 phút, rửa nước sạch và phơi khô sau khi sử dụng.
+ Cá chết được vớt ra khỏi lồng càng sớm càng tốt. Không vứt cá chết bừa bãi ra sông, trên mặt đất, cần được chôn vào hố cách ly có rải vôi bột để tiệt trùng.
+ Vào mùa dịch bệnh không nên cho cá ăn cá tạp tươi sống. Thức ăn cần được nấu chín hoặc sử dụng thức ăn viên.

* Trị bệnh: Cá nhiễm vi khuẩn Edwardsiella sp dùng kháng sinh: Florphenicol hoặc Doxycycline liều lượng 3-5 gam/100kg cá/ngày, cho ăn liên tục 7 ngày. Có thể bổ sung thêm Vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho cá với liều lượng 2-3 gam/100 kg cá/ngày, ăn liên tục 5 ngày. Thuốc được trộn vào thức ăn viên có áo dầu hoặc chất kết dính. (Còn nữa)

Nguyễn Thị Hà
Nguồn: TTKNQG