Từ các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đến các thử nghiệm nuôi lồng, thử nghiệm thực địa có thể kết luận rằng việc ứng dụng các sản phẩm parabiotic mang lại lợi ích đáng kể về chi phí khi được bổ sung vào ao nuôi tôm thường xuyên (mặc dù đôi khi chúng không có biểu hiện rõ rệt khi xem xét từng tham số đơn lẻ).
NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG MIỄN DỊCH CỦA TÔM
Động vật có xương sống có khả năng tạo ra các tế bào bạch cầu ghi nhớ sự phơi nhiễm điều này giúp chúng phản ứng nhanh hơn nếu tiếp xúc với mầm bệnh thêm một lần nữa. Tuy nhiên, ở tôm cơ chế này không tồn tại. Tôm không có bộ nhớ để ghi nhận những tiếp xúc với mầm bệnh trước đó và không hình thành kháng thể. Giống như hầu hết tất cả các sinh vật sống, tôm cũng có khả năng tạo ra protein sốc nhiệt (phân tử chaperone) để đối phó với những căng thẳng. Tất cả những điều này đều liên quan đến cách tôm phòng thủ với sự hiển của mầm bệnh.
Cách đối phó với các mầm bệnh ở tôm khá đơn giản. Khả năng miễn dịch và những đáp trả đối với tác động bên ngoài của chúng thường không hiệu quả và ít thành công. Để cải thiện khả năng đó, người nuôi cũng cần tập trung vào quá trình tôm được sản xuất ra, gồm: điều kiện sản xuất, những yêu cầu về an toàn sinh học… để xem xét sức khỏe, sức để kháng của con tôm.
Đơn vị AquainTech đã phát triển một loại parabiotic (hai sinh vật có lợi hợp nhất tự nhiên hoặc thử nghiệm) có lợi cho tôm. Sản phẩm trải qua một chuỗi các thử nghiệm từ khuôn khổ phòng thí nghiệm đến thực địa ở quy mô nhỏ và quy mô lớn. Dữ liệu cho thấy rõ lợi ích về chi phí và hầu hết các xét nghiệm đều có ý nghĩa (p < 0.05).
Trong phòng thí nghiệm, parabiotic được cách thêm trực tiếp hoặc gián tiếp vào thức ăn. Tôm nghiền thức ăn bằng miệng của chúng trước khi ăn. Sau khi thức ăn đi vào dạ dày, nó được tiếp tục nghiền nát. Hầu hết những gì được tiêu thụ sẽ xuất hiện dưới dạng vật liệu hạt mà tôm có khả năng tiếp nhận qua các chế độ và cách thức khác nhau (miệng, mang, thức ăn đi vào cùng lượng nước…).
Parabiotic được thêm vào bể nuôi có chứa ấu trùng tôm (PL) ở mật độ cao trong suốt thời gian thử nghiệm cho ăn. Parabiotic được pha loãng và cho ăn ở phạm vi từ từ 1:500 đến 1:5000, tùy thuộc vào cách tiếp cận cụ thể được sử dụng. Thông thường, mực nước trong bể được hạ xuống thấp để tạo điều kiện cho sự hấp thu thức ăn hiệu quả và tập trung hơn. Khởi động thiết bị sục khí ở mức cao để giảm thiểu stress cho ấu trùng (tối thiểu 3 giờ đồng hồ). Quá trình này kết thúc và có thể được lặp lại trong trường hợp cần thiết.
Kết quả kiểm tra trong phòng thí nghiệm: Thử thách tỷ lệ sống sót
Các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành với nhiều nhóm tôm nuôi khác nhau. Kết quả của PL15, PL30, tôm có bổ sung thêm parabiotic ở giai đoạn ấu trùng mysis 3 với số lượng 105 CFU/ml vi khuẩn vibrio parahaemolyticus (đơn vị hình khuẩn lạc trên mỗi ml). Và kết quả đã chứng minh rằng tôm có thể chịu đựng được sự phơi nhiễm với cả mầm bệnh virus và vi khuẩn.
Nhìn chung, trong tất cả các điều kiện của thử thách, tôm được bổ sung parabiotic ít nhạy cảm với chủng vibrio hơn. Các nhóm đối chứng đạt 60 – 50 – 80% tỷ lệ sống sót (tỷ lệ sống trung bình là 63%). Trong khi đó, với nhóm bổ sung parabiotic thì tỷ lệ này đạt 70 – 100 – 90% (tỷ lệ sống trung bình là 87%) (theo dõi biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tỷ lệ sống sót của tôm khi có bổ sung parabiotic (cột xanh) so với nhóm đối chứng (cột đỏ) để chống lại vibrio parahaemolyticus.
Một loạt các thử nghiệm khác cũng được tiến hành liên quan đến việc phơi nhiễm ở tôm có bổ sung parabiotic vào các mô chứa virus hội chứng Taura (TSV) ở mức độ cao. Kết quả cho thấy, trong trong trường hợp bổ sung parabiotic, tôm có khả năng chịu đựng tốt hơn khi tiếp xúc với TSV. Trong các nghiên cứu sao chép, một nhóm có tỷ lệ sống 98% và nhóm còn lại chỉ là 28%. Sự khác biệt trong kết quả phản ánh sự khác biệt về tải lượng virus trong các mô nhiễm khuẩn ở tôm. Các xét nghiệm khác cũng xác nhận, tôm được cho ăn parabiotic có mức độ phơi nhiễm TSV cao hơn nhiều để có tỷ lệ tử vong tương đương nhóm đối chứng.
Kết quả tương tự cũng được ghi nhận với các xét nghiệm phơi nhiễm virus hội chứng đốm trắng (WSSV) trên tôm.
Một thử nghiệm nữa cũng được thực hiện liên quan đến bệnh hoại tử gan cấp tính (AHPND). Kết quả này là trung trung bình lặp lại của 3 lần thí nghiệm trước đó. Sự khác biệt giữa 2 nhóm thí nghiệm được hiển thị rõ ràng. Các ấu trùng tôm được cho ăn với parabiotic (độ pha loãng 1:500) đạt tỷ lệ sống sót 80% so với 35% ở nhóm đối chứng.
THÍ NGHIỆM TRONG CÁC LỒNG NUÔI
Thí nghiệm được thực hiện với 4 lồng nuôi có điều kiện (được giám sát) và 4 lồng nuôi đối chứng. Mỗi lồng có 40 ấu trùng tôm (diện tích 20m2) và được thả xuống một ao nuôi khác nhau trong trang trại (ao nuôi A và ao nuôi B). Sau 56 ngày, thí nghiệm tại địa điểm A đã chấm dứt, chỉ có 16% tôm đối chứng còn sống sót so với 44% tôm ở nhóm có bổ sung parabiotic. Sau 59 ngày, thí nghiệm tại địa điểm B kết thúc, thu được 32% tôm đối chứng sống sót so với 40% tôm được bổ sung parabiotic.
Trong thí nghiệm khác, mỗi lồng đơn được đặt vào các ao riêng biệt (ao có kiểm soát và ao đối chứng). Vào cuối thí nghiệm, có một sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm tôm sống sót. Nhóm được cho ăn parabiotic luôn vượt trội hơn hẳn (theo dõi biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: Tỷ lệ sống sót của nhóm tôm nuôi lồng được bổ sung parabiotic (xanh) và nhóm đối chứng (đỏ).
Tổng kết kết quả từ một loạt thí nghiệm trên, một kết luận cuối cùng được đưa ra đó là sự có mặt của parabiotic trước khi thả tôm đã góp phần làm tăng tỷ lệ sống sót ở tôm nuôi. Tuy nhiên, vấn đề cần xem xét đó là, phải có một cái gì đó xảy ra đối với con tôm mà việc tiếp xúc với parabiotic sinh học có thể mang tới kết quả khả quan. Khi tỷ lệ sống sót ở tôm đối chứng cao, chúng cũng sẽ cao hơn ở tôm được bổ sung parabiotic. Và trong trường hợp, tôm đối chứng có mức độ tử vong cao, thì tỷ lệ này ở nhóm có mặt parabiotic lại thấp hơn và được cải thiện đáng kể.
THỬ NGHIỆM THỰC ĐỊA
Thử nghiệm được tiến hành với 3 ao nuôi tôm đối chứng và 3 ao nuôi tôm được cho ăn parabiotic (Ecuador), mật độ thả tôm là 8 con/ m2. Kết quả cho thấy những lợi ích đáng kể về chi phí, cứ 1 USD người nuôi sử dụng thêm parabiotic sẽ nhận được 9 USD lợi nhuận. Kết quả này được tính toán từ một chương trình máy tính vẽ đồ thị hồi quy dựa trên các yếu tố đầu vào và chi phí trong thực tế, từ đó dự đoán thời gian và lợi nhuận thu được từ vụ nuôi.
Chỉ tiêu | Tôm bổ sung parabiotic | Tôm đối chứng | Sự khác biệt (đơn vị: %) |
Tỷ lệ sống (%) | 57.6 | 48.8 | 19 |
Trọng lượng khi thu hoạch (g) | 9.2 | 9.6 | 5.2 |
Năng suất (pound/ ha) | 1.614 | 1.412 | 14.3 |
Bảng 1: Kết quả của thử nghiệm thực địa ở quy mô nhỏ đối với tôm bổ sung parabiotic so với nhóm đối chứng
Từ cơ sở của thử nghiệm trên, một thử nghiệm thực địa với quy mô lớn hơn tiếp tục được tiến hành trong các ao sản xuất tôm ở một trang trại thương mại lớn. Có 2 nhóm được thiết lập, nhóm A: 24 ao, 463ha và thu hoạch 83 triệu con tôm, nhóm B: 18 ao, 181ha và thu hoạch 18 triệu con. Kết quả thử nghiệm được thể hiện trong bảng 2 (theo dõi bảng 2).
Chỉ tiêu | Tôm bổ sung parabiotic | Tôm đối chứng | Sự khác biệt (%) | Tăng (%) |
FCR | 1.89 | 2.04 | 0.15 | 7.35 |
Nhóm A: Tỷ lệ sống | 30.7 | 29.04 | 5.8 | 1.6 |
Nhóm A: Trọng lượng thu hoạch (g) | 10.6 | 10.4 | 0.2 | 1.7 |
Nhóm A: Năng suất(pound/ ha) | 1.253,7 | 1.167,3 | 86,4 | 7,4 |
Nhóm B: tỷ lệ sống (%) | 57.3 | 56.7 | 0.6 | 1.1 |
Nhóm B: Trọng lượng lúc thu hoạch | 12.24 | 13.29 | 0.95 | 7.1 |
Nhóm B: Nắng suất (pound/ ha) | 1.728 | 1.609 | 119 | 7.4 |
Bảng 2: Kết quả của thử nghiệm thực địa ở quy mô lớn đối với tôm bổ sung parabiotic so với nhóm đối chứng
Từ dữ liệu thu hoạch cho thấy, tôm có bổ sung parabiotic cho tỷ lệ sống trung bình cao hơn một chút so với nhóm tôm đối chứng, và trọng lượng của chúng cũng tốt hơn khi thu hoạch. Tuy nhiên, chỉ từ những khác biệt nhỏ này dẫn đến sự gia tăng 7.4% sản lượng thu hoạch giữa các nhóm. Ngay cả khi, những thông số như tỷ lệ sống, trọng lượng về cơ bản giống nhau thì chênh lệch 7.35% FCR cũng là đáng kể, chỉ riêng điều này đã giúp người nuôi tiết kiệm đáng kể chi phí và tôm nuôi cũng cải thiện được khả năng sinh trưởng.
TỔNG KẾT
Từ thử nghiệm thực địa cho thấy, sản phẩm parabiotic mang lại lợi ích đáng kể về chi phí khi được sử dụng thường xuyên (dù đôi khi chúng không thấy tác dụng rõ rệt). Qua các thí nghiệm, một số lợi ích của parabiotic được ghi nhận đó là: như hiệu quả đối với trại ương giống, cải thiện tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR), cải thiện tỷ lệ sống, trọng lượng tôm nuôi… Bên cạnh đó, việc bổ sung parabiotic cho tôm cũng rất dễ dàng, trong khi một số nhân tố tác động ảnh hưởng tới tôm nhưng không hề ảnh hưởng đến hoạt động tiêu hóa parabiotic.
Vũ Tuân (lược dịch)
Nguồn: Aquaculturealliance
- nuôi tôm thẻ chân trắng li>
- parabiotic li> ul>
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt