Chi phí sản xuất: “Nút thắt” ngành tôm

[Người Nuôi Tôm] – Chi phí sản xuất tôm tại Việt Nam hiện đang cao hơn so với các quốc gia cạnh tranh trong khu vực cũng như so với giá bán. Giảm chi phí trong sản xuất tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam là một thách thức lớn đối với người nuôi tôm.

Chi phí nhân công, điện nước và các chi phí vận hành khác cũng đóng góp vào giá thành sản xuất cao (Ảnh: Hoàng Huynh)

 

Giá thành sản xuất tôm tại Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, chi phí sản xuất tôm tại Việt Nam dao động từ 3.5 – 4.2 USD/kg, trong khi chi phí sản xuất tôm tại Ấn Độ và Ecuador chỉ khoảng 2.7-3 USD/kg và 2.2 – 2.4 USD/kg. Như vậy có thể thấy, Việt Nam có chi phí sản xuất tôm thẻ chân trắng cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, bao gồm chi phí giống, thức ăn, thuốc, hóa chất, và các chi phí cố định khác, làm giảm lợi nhuận cho người nuôi.

Một trong những nguyên nhân chính là chi phí thức ăn nuôi tôm, chi phí này chiếm khoảng 65% giá thành sản xuất. Nguyên liệu sản xuất thức ăn nuôi tôm tại Việt Nam thường phải nhập khẩu, dẫn đến chi phí cao hơn so với các nước khác như Ecuador hay Ấn Độ, nơi có nguồn cung cấp thức ăn nội địa phong phú và giá rẻ hơn.

Ngoài ra, chi phí con giống cũng là một yếu tố quan trọng. Tôm giống tại Việt Nam thường có chất lượng không đồng đều và giá thành cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ. Điều này làm tăng chi phí sản xuất và giảm tỷ lệ thành công trong quá trình nuôi, chỉ đạt khoảng 40%. Trong khi đó, tỷ lệ thành công nuôi tôm ở Ecuador và Ấn Độ cao hơn nhiều, lần lượt là 90% và 60%.

Chi phí nhân công, điện nước và các chi phí vận hành khác cũng đóng góp vào giá thành sản xuất cao. Nhiều vùng nuôi tôm tại Việt Nam thiếu điện, phải sử dụng máy nổ để bơm nước và quạt khí, làm tăng chi phí. Bên cạnh đó, việc quản lý môi trường nuôi tôm chưa hiệu quả, dẫn đến tình trạng ô nhiễm và dịch bệnh, làm tăng chi phí xử lý và giảm năng suất.

Một yếu tố khác là chi phí đầu tư ban đầu cho cơ sở hạ tầng nuôi tôm tại Việt Nam cao hơn so với các nước khác. Nông dân Việt Nam thường phải đầu tư nhiều vào thiết kế ao nuôi, hệ thống xử lý nước và các trang thiết bị khác. Điều này làm tăng chi phí cố định và ảnh hưởng đến giá thành sản xuất cuối cùng.

Bên cạnh đó, việc lạm dụng hóa chất và kháng sinh trong quá trình nuôi tôm cũng làm tăng chi phí sản xuất. Việc sử dụng quá nhiều hóa chất không chỉ làm tăng chi phí mà còn ảnh hưởng đến chất lượng tôm và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một nguyên nhân khác có thể kể đến đó là phần lớn người nuôi tôm ở Việt Nam phụ thuộc vào tín dụng của đại lý, bao gồm cả tôm giống, thức ăn và các sản phẩm bổ trợ. Điều này góp phần đẩy chi phí sản xuất tôm tăng thêm 10-30%.

 

So sánh với các quốc gia nuôi tôm trọng điểm

Theo Global Seafood, tại Thái Lan những năm gần đây, nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp công nghệ để hỗ trợ tăng trưởng đã giúp giảm chi phí sản xuất từ 175 baht/kg xuống còn 90 baht/kg.

Gần đây, người nuôi tôm ở Ecuador đã bắt đầu áp dụng nhiều công nghệ hơn để giảm chi phí trong khi tăng năng suất, điều này đã giúp giảm chi phí sản xuất trên 1kg tôm, ngay cả trong thời điểm lạm phát đang gia tăng.

Ecuador nuôi tôm với mật độ thả giống từ 12-17 con/m2, Ấn Độ từ 30-50 con/m2, trong khi Việt Nam thả nuôi mật độ cao hơn nhiều, trung bình từ 120-500 con/m2. Mật độ thả giống thấp giúp giảm chi phí thức ăn và quản lý môi trường. Ecuador có các trang trại nuôi tôm với diện tích lớn, từ vài chục đến vài trăm ha, thậm chí có doanh nghiệp lên tới 4.000 ha. Quy mô lớn giúp giảm chi phí cố định và tăng hiệu quả sản xuất.

Yếu tố quan trọng nhất quyết định tới giá thành sản xuất tôm là thức ăn, tại Ấn Độ, Ecuador và Indonesia, người nuôi ưu tiên sử dụng thức ăn đạm thấp (35-38% đạm), giúp giảm chi phí thức ăn. Trong khi đó, Việt Nam sử dụng thức ăn đạm cao để rút ngắn thời gian nuôi, nhưng đổi lại chi phí thức ăn lại cao hơn.

Trong hội thảo Feeds and Feeding tại Aqua India 2024, vấn đề tác động của hai thách thức liên quan đến thức ăn và kinh tế trang trại đã được thảo luận. Theo đó, xu hướng gần đây trong ngành tôm ở Ấn Độ và các nước khác là sử dụng thức ăn có hàm lượng protein thấp để quản lý chi phí. Các kết quả thực nghiệm được trình bày tại hội thảo cho thấy khi sử dụng thức ăn có hàm lượng protein thấp hơn, chi phí sản xuất (COP) thấp hơn giúp người nông dân Ấn Độ có thể thu được 0,24 – 0,37 USD/ kg tôm kích cỡ 100 con/kg. Đây là mức lợi nhuận tốt cho người nuôi tôm ở Ấn Độ.

Ngoài ra, các trang trại lớn tại Ecuador và Ấn Độ mua thức ăn, thuốc men và vật tư trực tiếp từ nhà máy hoặc nhà phân phối cấp 1, giúp giảm chi phí đầu vào. Trong khi đó, nông dân Việt Nam thường mua qua nhiều đại lý, làm tăng giá thành.

Việc chi phí sản xuất tôm của Việt Nam cao hơn so với các quốc gia trong khu vực đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của người nuôi.

Việc chi phí sản xuất cao đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế (Ảnh: Vũ Sinh)

 

Cần liên kết đồng bộ các khâu để giảm chi phí

Giảm chi phí trong sản xuất tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam là một thách thức lớn đối với người nuôi tôm. Tuy nhiên, có một số phương án có thể giúp giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất.

Ứng dụng công nghệ: chúng ta đã nghe nhiều về AI, về IoT, về tự động hóa như những cách để tăng hiệu quả nuôi tôm. Công nghệ giúp kiểm soát môi trường ao nuôi, giảm thiểu dịch bệnh và tăng tỷ lệ sống của tôm.

Tối ưu hóa việc sử dụng thức ăn: người nuôi tôm có thể sử dụng các loại thức ăn chất lượng cao, có hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp để giảm lượng thức ăn cần thiết. Ngoài ra, việc áp dụng các phương pháp cho ăn tự động và theo dõi sát sao lượng thức ăn tiêu thụ cũng giúp giảm lãng phí và tối ưu hóa chi phí.

Cải thiện chất lượng tôm giống: Sử dụng tôm giống chất lượng cao, đã qua kiểm dịch và có nguồn gốc rõ ràng sẽ giúp giảm tỷ lệ hao hụt và chi phí sản xuất. Người nuôi tôm nên chọn các nhà cung cấp tôm giống uy tín và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi thả nuôi.

Áp dụng công nghệ và thiết bị hiện đại: Đầu tư vào các thiết bị và công nghệ hiện đại có thể giúp giảm chi phí lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Ví dụ, sử dụng hệ thống tự động hóa trong việc cho ăn, kiểm soát môi trường ao nuôi và quản lý dịch bệnh sẽ giúp giảm chi phí nhân công và tăng năng suất. Ngoài ra, việc sử dụng các thiết bị tiết kiệm năng lượng cũng giúp giảm chi phí điện nước.

Quản lý môi trường ao nuôi: Quản lý môi trường ao nuôi là yếu tố quan trọng để giảm chi phí sản xuất. Người nuôi tôm cần kiểm soát chặt chẽ các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, độ mặn và oxy hòa tan để đảm bảo môi trường sống tốt nhất cho tôm. Việc duy trì môi trường ổn định sẽ giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và chi phí thuốc, hóa chất.

Tăng cường hợp tác và liên kết: Người nuôi tôm có thể tăng cường hợp tác và liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan nghiên cứu để chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ và nguồn lực. Việc hợp tác này không chỉ giúp giảm chi phí mà còn tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.

Đào tạo và nâng cao kỹ năng: Người nuôi tôm cần được trang bị kiến thức về kỹ thuật nuôi tôm, quản lý môi trường và phòng chống dịch bệnh. Việc nâng cao kỹ năng sẽ giúp người nuôi tôm áp dụng các phương pháp nuôi hiệu quả và giảm thiểu rủi ro.

Việc giảm giá thành sản xuất tôm không chỉ giúp người nuôi tôm tăng lợi nhuận mà còn mang lại nhiều lợi ích khác như giảm rủi ro tài chính, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Những biện pháp này không chỉ cải thiện đời sống của người nông dân mà còn góp phần phát triển bền vững ngành nuôi tôm. Do đó, việc áp dụng các phương pháp giảm chi phí sản xuất là một bước đi quan trọng và cần thiết để đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững của ngành tôm Việt Nam.

Hiểu Lam

ÔNG ROBINS MCINTOSH, CHỦ TỊCH ĐIỀU HÀNH PHỤ TRÁCH MẢNG KỸ THUẬT TÔM TẬP ĐOÀN CHAROEN POKPHAND, THÁI LAN (C.P GROUP)

Công nghệ cần được áp dụng cẩn trọng

Nếu công nghệ được áp dụng một cách tùy tiện có thể dẫn đến thua lỗ thay vì cải thiện tình hình tài chính của trang trại. Công nghệ thành công phải có tính giảm phát.

Việc bổ sung ngày càng nhiều công nghệ để giành lại khả năng cạnh tranh có thể gây tác dụng ngược. Trong trường hợp của Thái Lan, ở một khía cạnh, việc sử dụng công nghệ là một thành công vì khối lượng sản xuất đã phục hồi – mặc dù không đạt mức cao trước đó. Tuy nhiên, công nghệ bổ sung thực sự làm tăng chi phí cho mỗi kg tôm được sản xuất, trong khi sự gia tăng khối lượng tôm trên thế giới dẫn đến việc giảm giá.

Với xu hướng giá tôm tiếp tục giảm, khi sản lượng thế giới tiếp tục tăng nhanh hơn mức tiêu thụ, hai kịch bản đang phát triển. Kịch bản một là các nước xuất khẩu. Nếu các nước này không thể sản xuất tôm hiệu quả hơn, họ sẽ không còn có thể cung cấp tôm với giá tốt. Ví dụ về điều này bao gồm Thái Lan và Việt Nam, những nước hiện phải tăng giá trị cho những con tôm xuất khẩu.

Kịch bản thứ hai liên quan đến các quốc gia có thị trường nội địa mạnh như Trung Quốc, Brazil, Úc và Malaysia (Singapore), những quốc gia có thể tiếp tục phát triển ngành công nghiệp của mình bất chấp giá xuất khẩu cạnh tranh.

PV (Theo Thefishsite)

Tin mới nhất

CN,24/11/2024