Nuôi tôm sú quảng canh cải tiến kết hợp sò huyết là một tiềm năng

Với hàm lượng dinh dưỡng cao, thịt thơm ngon nên giá thương phẩm sò huyết luôn ở mức cao và ổn định… Trong các mô hình nuôi sò huyết thì có thể khẳng định rằng mô hình nuôi sò huyết kết hợp với tôm sú là mô hình mang tính bền vững, có thể áp dụng và nhân rộng cho bà con nuôi tôm đang gặp nhiều khó khăn do vấn đề dịch bệnh trên tôm sú, đây cũng là mô hình nuôi có chi phí đầu tư thấp nhưng lợi nhuận đạt khá cao.

 

Bạc Liêu là một tỉnh ven biển điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển mô hình nuôi sò huyết như: Nuôi sò huyết tự nhiên ở vùng bãi biển ven bờ, nuôi sò huyết trong ao lắng nước ở mô hình nuôi tôm thâm canh, nuôi sò huyết kết hợp tôm sú trong ao nuôi tôm quãng canh cải tiến (QCCT) vùng Nam Quốc lộ IA… Ngoài yếu tố thiên nhiên ưu đãi, chất lượng sò huyết của Bạc Liêu cũng rất được thị trường ưa chuộng.

Hiện nay, mô hình nuôi sò huyết kết hợp với tôm sú trong vuông tôm QCCT ở tỉnh Bạc Liêu chủ yếu tập trung ở các xã An Phúc, An Trạch, Định Thành, Định Thành A… của huyện Đông Hải. Đa phần người dân tiên phong sản xuất mô hình nuôi sò huyết là người có nhiều kinh nghiệm nhưng lại thiếu vốn đầu tư sản xuất. Người dân rất quan tâm đầu tư, tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật. Với năng suất dao động từ 400-600 kg/1.000m2, giá sò huyết thương phẩm loại 80 con/kg được thương lái thu mua tại ao với giá dao động từ 130.000-140.000 đồng/kg. Theo đánh giá thực tế thì sau mỗi vụ nuôi sò huyết kéo dài từ 7-9 tháng người nuôi sẽ lãi ròng từ 40.000.000 đồng/1.000m2 – 60.000.000 đồng/1.000m2. Đây là tín hiệu khả quan đối với nông dân ven biển tỉnh Bạc Liêu khi trong thời điểm hiện nay một số người dân đang tìm hướng đi mới thay thế nghề nuôi tôm truyền thống trong khu vực gặp nhiều khó khăn do vấn đề biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chất lượng tôm giống…

Có thể khẳng định rằng mô hình nuôi sò huyết thương phẩm kết hơp trong nuôi tôm là một trong những mô hình đặc thù, mang lại hiệu quả khá cao cho nông dân ven biển tỉnh Bạc Liêu nói riêng và các tỉnh ven biển vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long nói chung. Tuy nhiên để mô hình nuôi này có thể nâng cao năng suất trong vụ mùa năm 2021 và những năm tiếp theo thì người nuôi sò huyết cần quan tâm đến một số giải pháp cải tiến trong quy trình như sau:

Theo dõi dự báo diễn biến thời tiết cũng như khuyến cáo lịch thời vụ sản xuất, thả giống sò huyết hàng năm, thông thường bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 11 dương lịch. Đối với công trình ao nuôi do người nuôi chủ yếu tận dụng những vuông nuôi tôm QCCT để sản xuất nên một số vùng nuôi xây dưng hệ thống công trình ao nuôi chưa đáp ứng đúng theo yêu cầu kỹ thuật như bờ ao nhỏ, mực nước trong ao thấp (khoảng 30-40 cm tính trên mặt trảng) nên trong điều kiện nắng nóng kéo dài sẽ làm nhiệt độ nước tăng cao gây ảnh hưởng đến sức đề kháng của sò huyết, chính vì vậy người nuôi cần cải tạo ao nuôi đảm bảo không bị rò rỉ nước và mực nước tối thiểu trong ao nên dao động từ 60-80 cm tính từ mặt trảng để tránh tình trạng dao động nhiệt độ giữa sáng và chiều chênh lệch quá cao.

Bên cạnh đó để chủ động cung cấp nước cho các ao nuôi thì đối với diện tích nuôi 10.000 m2 người nuôi cần phải thiết kế 1 ao trữ nước mặn có diện tích khoảng 1.000 m2 (độ mặn từ 15‰– 30‰), để chủ động cung cấp nước vào ao trong quá trình nuôi. Đối với hình thức nuôi sò huyết kết hợp tôm sú trong vuông QCCT thông thường theo truyền thống người nuôi sẽ không cho sò huyết ăn thức ăn bổ sung mà chủ yếu lấy nước ra vô theo chu kỳ con nước. Tuy nhiên trong những năm gần đây nguồn nước từ các tuyến sông phục vụ cho vùng nuôi tôm QCCT đa phần gặp vấn đề về chất lượng nước do nươc, rác thải sinh hoạt, chất xả thải từ các chợ, nhà máy, các khu nuôi tôm siêu thâm canh… Nên việc nuôi sò huyết theo hình thức truyền thống cũng đã không còn hiệu quả, rủi ro, thất bại cao.

Nhằm giải quyết các vấn đề khó khăn trên thì việc thay đổi tư duy, hình thức nuôi sò huyết bằng quy trình “Nuôi sò huyết kết hợp tôm sú trong vuông tôm QCCT theo hướng khép kín, sử dụng vi sinh, công nghệ sinh học Bồ Đề và bổ sung thức ăn công nghiệp” là một trong những giải pháp kỹ thuật mới giúp cho nghề nuôi sò huyết có thể đứng vững và phát triển diện tích nuôi trong thời gian sắp tới.

Mô hình nuôi sò huyết của anh: Hà Văn Nắm, ấp Hoàng Minh A, xã An Trạch, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu (Nguồn: Đức Khoa)

 

Đối với mô hình nuôi sò huyết thì khâu chuẩn bị nước ao nuôi là một vấn đề quan trọng, do sò huyết thích nghi tốt ở môi trường nước có độ mặn từ 20‰- 30‰, nên ngay từ đầu vụ người nuôi cần phải chuẩn bị nước mặn đúng theo yêu cầu kỹ thuật. Trước khi lấy nước vào ao nuôi người nuôi nên rải vôi CaO với liều lượng 50-70 kg/10002 để diệt ấu trùng địch hại, mầm rong và ổn định độ kiềm, pH… Trước khi thả sò giống 5 ngày người nuôi cần phải gây màu nước để tạo thức ăn tự nhiên cho sò huyết bằng sản phẩm công nghệ sinh học bồ đề, vi sinh, mật đường, cám… Cách xử lý: 2 lít sản phẩm Công nghệ sinh học Bồ Đề/1000 m3 nước, kết hợp ủ vi sinh, mật đường và cám ủ (2 kg cám/1000m3trong 24 giờ sau đó xử lý lúc 8-9 giờ. Có thể xử lý 1-2 lần đến khi tảo trong ao nuôi phát triển tốt.

Hiện nay nguồn giống sò huyết trên thị trường chủ yếu được thương lái thu gom từ nguồn sò giống (sò cám) ngoài tự nhiên về ương. Do đó khi thả giống người nuôi nên chọn những bãi sò giống tại địa phương, nơi cung cấp có uy tín, nên chọn sò giống khoảng 800-1.000 con/kg. Với ao nuôi có diện tích 2.000 m2 khuyến cáo người nuôi nên thả khoảng 150-200kg sò giống. Lưu ý khi vận chuyển giống đến nơi thả phải dưới 5 giờ, trong quá trình vận chuyển giống tránh nước mưa rơi vào sò. Trước khi thả giống nên lấy nước ngoài vuông nuôi rắc đều vô sò giống và để khoảng 60 phút để sò huyết thích nghi với môi trường vuông nuôi và cân bằng nhiệt độ, khi thả sò huyết cần rải nhẹ đều trên mặt vuông.

Sau khi thả giống sò từ 4-5 giờ nên xuống ruộng (bãi nuôi) mò xem sò có vùi xuống dưới mặt đấy chưa, nếu sò huyết đã vùi thì chứng tỏ sò đã thích nghi tốt với môi trường vuông nuôi. Do đây là quy trình nuôi sò huyết khép kín, hạn chế lấy nước vào ao nuôi theo triều cường (chỉ lấy nước khi cần thiết hoặc cấp từ vuông trữ nước sang) nên định kỳ 7 ngày phải sử dụng 2 kg thức ăn công nghiệp số 0 của tôm sú pha đều tạt khắp vuông để bổ sung cho sò huyết ăn, sau khi sử dụng thức ăn công nghiệp 3 – 4 ngày tiến hành ủ vi sinh (chọn loại vi sinh có chất lượng tốt từ các nhà cung cấp có uy tín hoặc có nguời trong vùng đã sử dụng có hiệu quả trước đó) + 3 kg cám + 3 kg mật đường (ủ 24 giờ), xử lý lúc 8h sáng. Đây là liều lượng đối với ao nuôi sò huyết có diện tích 2.000 m2.

Bên cạnh đó nhằm cung cấp khoáng chất có lợi cho sò huyết, ổn định pH, tái tạo dinh dưỡng môi trường, cung cấp oxy đáy vuông… định kỳ 7-10 ngày cần sử dụng 2 lít sản phẩm Công nghệ sinh học Bồ Đề/2.000 m2. Nên sử dụng Yucca kết hợp với Zeoline định kỳ 15 ngày/lần, liều lượng mỗi loại sử dụng: 1 lít Yucca + 20 kg Zeoline/2.000 m2. Mục đích để hạn chế sự ô nhiễm hữu cơ trong ao nuôi, hạn chế sự phát triển của rong đáy, rong nhớt. Hạn chế tối đa việc cấp nước trực tiếp từ ngoài vào vuông nuôi sò huyết nhằm tránh bị sốc và chết do nguồn nước có nguy cơ ô nhiễm cao. Nước có màu vàng nhạt hoặc xanh vỏ đậu, độ trong dưới 15 cm là đạt yêu cầu và đảm bảo nguồn thức ăn cho sò huyết.

Hiện nay, ở mô hình nuôi sò huyết vấn đề dịch bệnh vẫn chưa được nghiên cứu chuyên sâu. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi thông thường sò huyết sẽ gặp một số hiện tượng gây bất lợi như: Sò tập trung nhiều một chỗ sẽ gây thiếu ôxy, vào tháng mưa nhiều, sò có thể bị hao do sốc môi trường… Để khắc phục các tình trạng trên thì khoảng 3-5 ngày nên kiểm tra sò huyết một lần, bên cạnh đó trong quá trình quản lý ao nuôi ngoài vấn đề quản lý tốt thức ăn, dinh dưỡng nên định kỳ 4-5 ngày/lần nên kiểm tra độ kiềm, độ pH, khí độc NO2… (độ kiềm thích hợp nhất từ 120 -180 ppm). Nên sử dụng vi sinh kết hợp Công nghệ sinh học Bồ Đề định kỳ. Vào những ngày nắng nóng, nhiệt độ cao trên 38oC nên sử dụng 5 kg Vitamin C tạt cho ao 2.000 m2 lúc 15 giờ.

Tóm lại, mô hình nuôi sò huyết kết hợp tôm sú trong vuông tôm QCCT là mô hình phát triển ổn định, tính bền vững khá cao và thân thiện với môi trường nên trong thời gian tới người nuôi tiếp tục thực hiện các giải pháp kỹ thuật cải tiến trên nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, ổn định, nâng dần năng suất và hiệu quả kinh tế cao cho mô hình nuôi giúp dân cư vùng ven biển của tỉnh Bạc Liêu vươn lên làm giàu chính trên quê hương mình./.

Đức Khoa – Phòng Kỹ thuật – Trung tâm Khuyến nông