[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Bài viết này được nghiên cứu nhằm làm rõ ý nghĩa của các thuật ngữ mới thường được sử dụng trong ngành nuôi tôm quốc tế khi nói về tôm SPF (không chứa mầm bệnh). Việc hiểu đúng các thuật ngữ này có thể làm giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh đối với sản xuất tôm thương phẩm và đem lại lợi nhuận cho ngành nuôi trồng thủy sản.
Những lợi ích của việc sử dụng giống P.vannamei có SPF được cải tiến và biến đổi gen để tạo ra những con tôm giống khỏe mạnh cho người nuôi sử dụng thả nuôi trong ao của họ, thuật ngữ SPF ở châu Á bắt đầu liên quan đến những đàn có khả năng chống chịu hoặc kháng bệnh cao hơn. Tuy nhiên, tình huống ngược lại xảy ra ở châu Mỹ latinh, nơi tôm SPF được thả trong các ao không có an toàn sinh học loại trừ mầm bệnh dẫn đến chết hàng loạt và người nuôi nhận thức rằng tình trạng SPF ngụ ý mức độ mẫn cảm cao hơn. Nhận thức này là không chính xác. Vì SPF chỉ cho biết tình trạng mầm bệnh hiện tại đối với một kho hàng chứ không cho biết tính nhạy cảm, sức đề kháng hoặc khả năng chịu đựng của nó đối với mầm bệnh trong tương lai.
Hiện tượng dung nạp mầm bệnh virus truyền nhiễm trong một thời gian dài mà không có dấu hiệu bệnh được gọi là nơi ở của virus, nhưng cơ chế của nó vẫn chưa rõ ràng. Các đàn tôm chịu được hội chứng Taura TSV nhưng không bị nhiễm TSV đã được phát triển bằng cách sử dụng chọn lọc gen di truyền. Khi những con giống này được thử thách với các chủng TSV phân lập gây bệnh, chúng sẽ bị nhiễm bệnh nhưng không có biểu hiện bệnh nào. Tuy nhiên, chúng mang virus gây bệnh và có thể truyền cho những con tôm yếu, nhạy cảm. Do đó, đàn tôm dung nạp và mang virus có thể thiếu các dấu hiệu bệnh (bao gồm tổn thương mô học) và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các phương pháp phát hiện phân tử có độ nhạy thấp, tạo thành mối nguy hiểm đặc biệt cần được đề phòng trong quá trình di chuyển xuyên biên giới của đàn tôm đối với nuôi trồng thủy sản. các thuật ngữ này phải được xác định rõ ràng và hiểu rõ để tránh nhầm lẫn mà những cá nhân vô đạo đức có thể sử dụng để lợi dụng những người nuôi tôm.
Nguồn dự trữ không có mầm bệnh (SPF)
Các nguồn cung cấp SPF không nhất thiết phải có tất cả các mầm bệnh. Bất kỳ đàn tôm nào được công bố là SPF phải không có các chủng vi khuẩn Vibrio phân lập gây bệnh hoại tử gan tụy (AHPND), hepatopancreatitis gây bệnh gan tuy tôm (NHP), virus hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô (IHHNV), virus gây hội chứng taura nhiễm trùng (TSV), virus hội chứng đốm trắng (WSSV) và virus đầu vàng (YHV – kiểu gen 1).
Có hai cách để tạo ra nguồn tôm SPF: Thứ nhất, tìm ra một khu vực địa lý mà các mầm bệnh chính trên tôm được biết là không có hoặc ở mức độ thấp để bắt và sàng lọc tôm từ khu vực đó, và chọn các cá thể được chứng minh là không có mầm bệnh cho ít nhất 2 năm liên tiếp; thứ hai, tạo đàn SPF là chọn khu vực nuôi tôm nơi có các mầm bệnh chính trên tôm như WSSV, TSV, IHHNV và sử dụng quy trình sàng lọc liên tục để chọn những cá thể được hiển thị không chứa một loại mầm bệnh cụ thể trong khoảng thời gian ít nhất là 2 năm liên tiếp.
Tình trạng bệnh phát sinh từ sự tương tác của tác nhân gây bệnh (di truyền) vật chủ và các yếu tố môi trường. Vì vậy, theo quan điểm của nhà khoa học, sức đề kháng là khả năng chống lại sự lây nhiễm (tính trạng định tính), trong khi khả năng chịu đựng là khả năng làm giảm sự biểu hiện của bệnh (tính trạng số lượng).
Đàn gia súc kháng mầm bệnh (SPR) cụ thể (thuật ngữ mới)
Đây là những đàn động vật vẫn chịu được sự lây nhiễm mà không có dấu hiệu nhiễm bệnh, ngay cả khi đã thử thách với liều lượng gây chết một hoặc nhiều mầm bệnh cụ thể.
Các giống kháng mầm bệnh cụ thể (SPT) (thuật ngữ mới)
Đây là những đàn dễ bị lây nhiễm bởi một mầm bệnh cụ thể nhưng thường không phát triển các dấu hiệu bệnh rõ ràng do phụ thuộc vào di truyền, chủng mầm bệnh, và các điều kiện môi trường ảnh hưởng đến bệnh. Khả năng chịu đựng có thể cụ thể đối với một mầm bệnh, một chủng mầm bệnh hoặc một nhóm tác nhân gây bệnh.
Dự trữ SPF và SPR hoặc SPT kết hợp (thuật ngữ mới)
Trong khi SPF đề cập đến tình trạng sức khỏe của động vật, có thể kết hợp SPF tình trạng sức khỏe với tình trạng di truyền SPF + SPR, SPF + SPT hoặc SPF + SPT + SPR. Nói cách khác, một con giống được đặc trưng là SPF dựa trên tình trạng sức khỏe có thể phải tuân theo một chương trình chọn lọc di truyền tiếp theo được thiết kế để xác định đặc tính và chọn lọc các thuộc tính di truyền trong quần thể đàn có thể dẫn đến khả năng kháng bệnh cụ thể/khả năng chống chịu với một hoặc nhiều mầm bệnh.
Các vấn đề xác nhận tình trạng SPF
Mặc dù các quy trình được quốc tế chấp thuận để phát hiện hầu hết các mầm bệnh quan trọng của tôm cần được đưa vào chương trình SPF, nhưng việc xác định các yếu tố virus nội sinh (EVE) đã trở thành một thách thức khoa học đối với chứng nhận SPF của tôm. Nhiều EVE khác đối với IHHNV được báo cáo cho P. monodon và P. vannamei cho kết quả xét nghiệm PCR dương tính giả với IHHNV, mặc dù tôm không bị nhiễm IHHNV. Những kết quả xét nghiệm dương tính giả như vậy đối với một loại virus truyền nhiễm có thể gây ra những tác động thương mại nghiêm trọng trên toàn quốc đối với những người nuôi tôm.
Kết luận
SPF đề cập đến tình trạng sức khỏe của đàn tôm, trong khi trạng thái SPR và SPT đề cập đến các đặc điểm di truyền xác định của đàn tôm để phản ứng với đàn tôm bệnh và dịch bệnh. Mục tiêu là để tránh các tác động tiêu cực đến sản xuất, lây truyền giữa các loài và các rào cản thương mại có thể phát sinh từ việc phát hiện mầm bệnh trong tôm và các sản phẩm từ tôm. Cũng có thể kết hợp các chiến lược như SPF + SPR, SPF + SPT hoặc SPF + SPR + SPT để giúp người nuôi ngăn ngừa sự bùng phát dịch bệnh trong các ao nuôi thương phẩm. Sự thành công của các phương pháp này có thể phụ thuộc vào chiến lược an toàn sinh học được xác định cho từng cơ sở. Điều đó có thể liên quan đến tình trạng sức khỏe đàn và tình trạng di truyền.
Ngọc Anh (Lược dịch)
- Tôm SPF li> ul>
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Ngành tôm Ecuador 2025: Thách thức bủa vây
- Xuất khẩu tôm Quý I: Tín hiệu khởi sắc
- Cơ cấu giá thành nuôi tôm nước lợ tại Việt Nam
- TPD: Vụ tôm mới, nỗi lo cũ
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 3/2025
- Nuôi tôm dễ dàng, thành công vững vàng cùng thức ăn đa tầng STP của Japfa Việt Nam
- Hà Tĩnh: Sẵn sàng cho vụ tôm xuân – hè 2025
- MiXscience Asia: Bộ sản phẩm phòng ngừa EHP, EMS, WFS, WSSV, TPD
- Học hỏi công nghệ xử lý nước nuôi trồng thủy sản tiên tiến từ Israel
Tin mới nhất
T2,31/03/2025
- Phương pháp lên men cám gạo: Tăng dinh dưỡng, cải thiện nước ao nuôi tôm
- Cám gạo lên men: Thức ăn giàu protein cho tôm sú
- Taurine: Hỗ trợ giảm thời gian chờ sinh sản của tôm mẹ
- Thực khuẩn thể: Bước tiến mới trong phòng trị bệnh vi khuẩn cho tôm
- Công cụ di động chẩn đoán virus đốm trắng trong 24 giờ
- VHVP-2: Đặc điểm gen trong Vibrio gây bệnh TPD
- Bệnh đốm trắng: Nguyên nhân chính gây giảm năng suất tôm
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Oxy sinh học và oxy hóa học: Sự khác biệt về nhu cầu
- Công nghệ thông minh AIoT: Cơ hội chuyển mình cho ngành thủy sản
- Sản lượng tôm toàn cầu ước đạt 6 triệu tấn vào năm 2025
- Cà Mau giữ vững vị thế xuất khẩu tôm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
- Nuôi tôm nước lợ công nghệ cao, nông dân Bến Tre thu về hơn 6.300 tỷ đồng
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Giá trị xuất khẩu thủy sản khởi sắc những tháng đầu năm
- Tăng cường kiểm soát thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu
- Đề xuất thành lập “nhóm đặc nhiệm” về thương mại nông sản Việt Nam – Singapore
- Hà Nội thúc đẩy phát triển nguồn lợi thủy sản
- Sản lượng thủy sản tháng đầu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Xác nhận thực tế về giải pháp thức ăn mới có lợi cho việc giảm thiểu EHP ở Đông Nam Á
- Huyền Rơm: Bông hồng trẻ đam mê nghiên cứu vi sinh thủy sản
- Kết quả sản xuất tôm nước lợ năm 2024 tại các địa phương
- Grobest: Nâng tầm tôm Việt với di sản 50 năm phát triển bền vững
- 10 vụ tôm liên tiếp thành công cùng mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Grobest
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống