Rabobank: Ngành tôm nuôi thế giới sẽ có một năm ổn định

Sau một năm đầy may rủi đối với thị trường tôm và người nuôi tôm, Gorjan Nikolik, nhà phân tích thủy sản cấp cao tại Rabobank, đã chia sẻ nhận định của mình về giai đoạn còn lại của năm 2021, liên quan đến bức tranh các nước sản xuất và xuất khẩu tôm chính.

 

Về nhu cầu: Mỹ và Trung Quốc là 2 bức tranh khác biệt

Về thị trường tôm, Nikolik lưu ý rằng nhu cầu ở EU nhìn chung vẫn khá ổn định, nhưng ông vẽ ra một bức tranh rất khác giữa hai thị trường lớn – Trung Quốc và Mỹ – trong suốt 12 tháng đầy biến động.

Câu chuyện lớn chính là Trung Quốc – từ tháng 7/2020 trở đi, Trung Quốc nhập khẩu tôm ít hơn rất nhiều, gần bằng một nửa mức của năm 2019. NK trong quý 4/2020 đặc biệt tồi tệ: tháng 11 giảm xuống còn 38.000 tấn, giảm so với mức 78.000 cùng tháng năm 2019; trong tháng 12, giảm xuống còn 49.800 tấn, so với 97.000 tấn. NK tôm nước ấm đông lạnh của nước này năm 2020 giảm 22,5% về giá trị và 14,2% về khối lượng, chủ yếu giảm trong nửa cuối năm.

Mấu chốt của sự sụt giảm này là do người Trung Quốc đổ lỗi cho thủy hải sản nhập khẩu gây ra rủi ro liên quan đến Covid-19. Chính phủ Trung Quốc đã thông báo với mọi người rằng tình hình Covid bên ngoài Trung Quốc đang khá nghiêm trọng, khiến người tiêu dùng Trung Quốc lo sợ. Chính phủ cũng đã liên tục kiểm tra Covid đối với các sản phẩm đông lạnh, gây ra sự chậm trễ và khiến việc nhập khẩu gặp rủi ro.

Thật khó để biết tình trạng này sẽ thay đổi như thế nào trong năm 2021 – nỗi sợ hãi đang dần giảm bớt, nhưng nhập khẩu vẫn thấp hơn so với trước đại dịch.

Mặt khác, thị trường Mỹ lại là một bức tranh rất khác. Điều đặc biệt bất thường là cả khối lượng và giá trị NK tôm vào Mỹ đều tăng. Thông thường, khối lượng tăng đi đôi với giá thấp hơn, có nghĩa là giá trị tổng thể gần như giống nhau. Tuy nhiên, rõ ràng là người tiêu dùng Mỹ đã tăng mức tiêu thụ của họ, đặc biệt là tiêu thụ các sản phẩm chế biến, có giá trị cao hơn. Vì vậy, họ đã chi nhiều hơn cho mỗi đơn vị tôm, làm cho giá trị tổng thể tăng lên.

Tôm “thắng lợi” lớn trên thị trường Mỹ: trong đại dịch người tiêu dùng Mỹ đã chuyển sang thực phẩm mà họ quen thuộc – họ mua những gì họ biết để nấu ở nhà. Doanh số bán lẻ đã có những bước nhảy vọt trong năm 2020: tôm nguyên liệu đông lạnh, ngành công nghiệp trị giá 2 tỷ USD, tăng mức đáng kinh ngạc 47%, tôm nấu chín đông lạnh tăng 25%. Ông cho biết thêm, trong một thời gian rất dài chưa thấy có tốc độ tăng trưởng như vậy trong một ngành hàng lớn.

Nikolik tin rằng,  nhu cầu ở Mỹ sẽ tiếp tục vững chắc trong năm tới. Liệu nhu cầu mạnh mẽ này có tiếp tục khi lĩnh vực dịch vụ ăn uống mở cửa? Chúng ta có thể lạc quan về tiêu thụ tôm của Mỹ. Nhu cầu dịch vụ ăn uống có thể sẽ tăng lên khi nhiều người được tiêm chủng hơn và doanh số bán lẻ cũng sẽ không giảm, vì vậy đó là một triển vọng rất tươi sáng. Thực tế, từ đầu năm đến nay, Mỹ nhập khẩu tôm rất mạnh.

Dù với mặt hàng tôm khó có thể dự đoán được như cá hồi (vì cá hồi có chu kỳ 120 ngày), nhưng hiện tại không có vấn đề nào về nguồn cung, không có dịch bệnh bùng phát hoặc bất kỳ vấn đề khí hậu lớn nào, có nghĩa là chúng ta có thể giả định rằng về cơ bản cung sẽ theo cầu. Nguồn cung tôm biến động do chu kỳ sản xuất ngắn, do đó nó sẽ theo nhu cầu của năm 2021 – nó vẫn sẽ là thị trường của người mua.

Nhận định năm 2020

Phân tích của Rabobank cho thấy số liệu sản xuất tôm toàn cầu chỉ giảm ở mức khiêm tốn 5%, bất chấp đại dịch, mặc dù ở một vài quốc gia có bị sụt giảm nghiêm trọng hơn.  Ấn Độ – nước sản xuất và XK lớn, bị giảm khối lượng xuất khẩu 150.000 tấn – 200.000 tấn. Sản lượng của các nước Trung Quốc, Việt Nam ổn định, có thể tăng một chút, trong khi Ecuador tăng mạnh sản xuất trong giai đoạn rất khó khăn này.

Ecuador

Ecuador đã có một năm khó khăn, nhưng dù sao năm 2020 đã kết thúc với một ghi nhận đầy hứa hẹn – ít nhất là đối với nhiều nhà sản xuất lớn của nước này. Trước năm 2020, Ecuador đã từng tăng trưởng đáng kinh ngạc, đại dịch chỉ làm giảm phần nào động lực tăng trưởng của nước này, mặc dù giá trị xuất khẩu không tăng. Nhưng đó là một năm XK kiểu “tàu ​​lượn siêu tốc” – doanh số bán hàng sang Trung Quốc tăng lên, sau đó thực sự biến mất vào mùa hè, khi quá trình kiểm nghiệm Covid bắt đầu. Họ đã quay trở lại Trung Quốc theo cách nào đó và đã thực hiện rất tốt việc xoay sang Mỹ và EU, bằng cách đầu tư vào lĩnh vực chế biến. Năm nay thương mại với Trung Quốc vẫn giảm sút, nhưng  Ecuador đã cân bằng hơn nhiều giữa 3 khu vực xuất khẩu – Mỹ, EU và Trung Quốc.

Đáng lưu ý là, việc tăng cường xuất tôm sang Mỹ đã kéo theo nhu cầu chế biến sản phẩm GTGT tăng lên. Vì vậy, những hộ nuôi nhỏ không chế biến được phải bán tôm nguyên liệu cho những nhà máy lớn hơn, tích hợp hơn. Và những công ty lớn hơn đó đã kiếm được thêm một phần lợi nhuận. Những người nuôi nhỏ này đang rời đi, có thể đa dạng hóa sang các loại nuôi trồng, canh tác khác, chẳng hạn như chuối, hoặc bán đất của họ, trong khi những doanh nghiệp lớn hơn tập trung lại trong khu vực nhiều hơn – thường xuyên hơn, tăng cường sản xuất. Một trong những kết quả chính của năm 2020 là các công ty lớn hơn đã chiếm được thị phần và nhóm lợi nhuận của nhà sản xuất nhỏ.

Ấn Độ

Trước năm 2020, Ấn Độ đã tăng trưởng mạnh mẽ, mặc dù không cao bằng Ecuador, nhưng giá trị xuất khẩu tôm của họ vẫn giữ vững trong năm 2017. Ấn Độ đang nhắm mục tiêu lớn đến Mỹ, nhưng nếu không có nhiều đổi mới sản phẩm và tiếp thị thì rất khó để bán được nhiều tôm hơn sang Mỹ mà không bị giảm giá, vì vậy về cơ bản đó là một vấn đề lớn đối với tôm Ấn Độ vào năm 2020, họ đã giảm cả khối lượng và giá trị – khối lượng tương đương năm 2017 nhưng giảm khá nhiều về giá trị. Đó là một năm khó khăn đối với Ấn Độ – họ thực sự gặp vấn đề do việc bị phong tỏa bởi Covid. Có những giai đoạn vào tháng 3 và tháng 4, vào mùa hè và vào tháng 12, họ gặp khó khăn vì không thể xuất khẩu đủ sản phẩm và bị chậm trễ trong mùa vụ.

Tuy nguồn cung rất biến động, nhưng giá tôm Ấn Độ không thấp như ở Ecuador. Và họ đang bắt đầu một năm khá tốt nhờ vào vị thế vững chắc của họ trong ngành bán lẻ tại Mỹ – Ấn Độ là nhà sản xuất hàng đầu các sản phẩm tôm cho kênh bán lẻ ở Mỹ, trong khi hoạt động bán lẻ của Mỹ đang diễn ra rất tốt. Tuy nhiên, trong thời gian bị phong tỏa, khi các nhà máy chế biến tôm (lột vỏ)  không hoạt động, họ phải chuyển hướng sang thị trường Trung Quốc để xử lý tôm chưa chế biến của họ.

Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia có kết quả kinh doanh tốt nhất vào năm 2020, nhờ vào phạm vi thị trường đa dạng và ảnh hưởng ít bởi Covid. Không giống như Ấn Độ và Ecuador, Việt Nam là một quốc gia rất đa dạng về khả năng tiếp cận toàn cầu. Giá trị bán hàng của họ không giảm vào năm 2020 – họ không bị ảnh hưởng như Ecuador hoặc Ấn Độ về cả thị trường và nguồn cung. Họ đã có một ngành hoạt động tốt trong bối cảnh Covid. Về doanh số bán hàng tháng, họ đã kết thúc năm có kết quả khả quan và chúng ta có thể thấy Việt Nam sẽ vươn lên mạnh mẽ trong quý 2 năm 2021, Nikolik nói.

Về giá cả cũng khả quan và Việt Nam bước vào năm 2021 với mức giá tương đương năm 2020 và 2019, điềm báo tốt cho Việt Nam, vì họ có khả năng tiếp cận thị trường tốt và khá cân bằng giữa EU – nơi họ có một hiệp định thương mại – và Mỹ, thị trường trọng điểm. Trung Quốc là một phần không quả lớn của thị trường Việt Nam, vì vậy chúng tôi có thể lạc quan đối với họ cho năm 2021 và thậm chí xa hơn nữa, ông dự đoán.

Indonesia

Dù còn một số tranh luận về mức độ chính xác các số liệu sản xuất do chính phủ Indonesia công bố, nhưng Nikolik lưu ý rằng Indonesia có lẽ đứng đầu trong số các nước sản xuất tôm lớn vào năm 2021.

Có thể nói rằng “người chiến thắng” năm 2020 là Indonesia – dù sản xuất không đột phá trước năm 2020, nhưng họ đã ghi nhận mức tăng 16% về giá trị và 15% về sản lượng XK trong năm 2020, mỗi tháng đều có giá trị XK cao hơn năm trước. Lý do là họ rất mạnh ở Mỹ, thậm chí còn hơn cả Ấn Độ – gần 80% tôm của họ xuất đến Mỹ và tất cả đều là để bán lẻ. Họ đã xuất khẩu nhiều vào tháng 5 và tháng 4/2020, khi Ấn Độ gặp khó khăn và cũng xuất khẩu mạnh vào mùa hè, khi Ấn Độ không thể giao hàng, vì vậy hai quốc gia này là đối thủ cạnh tranh chặt chẽ cho cùng một phân khúc bán lẻ ở Mỹ. Và trên thực tế, họ đã có mức giá rất tốt vào năm 2021 bởi vì họ là những người duy nhất có thể cung cấp cho thị trường này, Nikolik giải thích.

Một trong những cuộc tranh luận lớn là có phải thực sự năm 2020 họ đã tăng mạnh sản lượng không-  câu trả lời có lẽ là không. Họ có một thị trường nội địa lớn – tiêu thụ khoảng từ 30 đến 40% sản lượng của họ. Nhưng năm ngoái, việc bán cho hệ thống bán lẻ ở Mỹ quá hấp dẫn đến nỗi phần sản lượng đó nhanh chóng bị chuyển hướng khỏi thị trường nội địa đến Mỹ, vì vậy sản lượng có lẽ chỉ tăng 10%- 15%. ông nói thêm.

Nguồn: www.vasep.com.vn

Tin mới nhất

T6,22/11/2024