Dấu hiệu nhận biết hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS) ở tôm nuôi

Căn cứ vào tình hình dịch bệnh trong thời gian qua và kết quả xét nghiệm mẫu bệnh phẩm của các phòng xét nghiệm trong và ngoài nước, Cục Thú y đã ban hành Hướng dẫn các dấu hiệu nhận biết hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS) ở tôm nuôi như sau: 

Gan tôm thẻ bị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính – Ảnh minh họa: ST

 

Loài nhiễm bệnh:

Tôm sú (Penaeus monodon) và Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei)

Giai đoạn nhiễm bệnh:

Trong suốt quá trình nuôi, tập trung nhiều ở giai đoạn từ 10 đến 45 ngày sau khi thả nuôi.

Triệu chứng lâm sàng:

Ở giai đoạn đầu, triệu chứng của bệnh chưa rõ ràng. Tôm chậm lớn, lờ đờ, bỏ ăn, tấp mé và chết ở đáy ao/đầm nuôi. Ở giai đoạn tiếp theo, tôm bệnh có hiện tượng vỏ mềm, màu sắc cơ thể biến đổi, gan tụy mềm nhũn, sưng to hoặc bị teo lại.

Dấu hiệu bệnh tích:

Tổ chức gan tụy thoái hóa tiến triển cấp tính. Thiếu hoạt động phân bào đẳng nhiễm trong tế bào có nguồn gốc từ mô phôi (tế bào E: Embyonalzellen). Các tế bào trung tâm của tổ chức gan tụy (tế bào tiết B: Basenzellen, tế bào xơ F: Fibrillenzellen, tế bào dự trữ R: Restzenllen) có sự biến đổi cấu trúc và rối loạn chức năng. Các tế bào của tổ chức gan tụy có nhân lớn bất thường và có hiện tượng bong tróc tế bào biểu mô ống lượn và bị viêm nhẹ.

Ở giai đoạn cuối của hội chứng hoại từ gan tụy cấp tính có sự tập hợp của tế bào máu ở giữa ống gan tụy và nhiễm khuẩn thứ cấp.

Biện pháp phòng bệnh:

Có thể áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp đối với bệnh hoại tử gan tụy trên tôm như sau:

* Trong các trại sản xuất tôm giống:

– Chọn đàn tôm mẹ sạch bệnh để ngăn cản quá trình lây nhiễm bệnh từ tôm mẹ sang tôm con.

– Không nên nhốt chung tôm mẹ từ các nguồn khác nhau vào một dụng cụ để tránh sự lây lan mầm bệnh từ con này sang con khác. Nước và dụng cụ cần được khử trùng kỹ trước khi dùng, không nên dùng chung dụng cụ giữa các bể ấp. Không nên ương ấp mật độ quá dày.

– Rửa nauplius (ấu trùng tôm), hay rửa trứng bằng Formol 100 – 200ppm trong 30 giây đến 1 phút hoặc Iodine 1 – 2ppm trong 1 – 2 phút.

– Nguồn nước nên được sát trùng bằng các phương pháp khác nhau như: phương pháp cơ học (lọc), phương pháp hóa học (xử lý bằng thuốc sát trùng), phương pháp lí học (sát trùng bằng đèn cực tím), phương pháp sinh học, sinh thái để tiêu diệt và kìm hãm tác nhân gây bệnh.

* Trong nuôi tôm thịt (tôm thương phẩm):

– Áp dụng biện pháp sốc Formol 100 – 200ppm, trong 30 giây đến 1 phút, để lựa chọn một đàn giống khỏe, không nhiễm bệnh, hay loại bỏ bớt những con mang mầm bệnh, trước khi thả giống.

– Tẩy ao cẩn thận trước một chu kỳ nuôi: Vét hết chất thải của đợt sản xuất trước, phơi nắng đáy ao (nếu có thể), sát trùng đáy ao bằng vôi và hóa chất để tiêu diệt mầm bệnh tồn tại ở đáy ao. Không nên nuôi tôm với mật độ quá cao.

– Sử dụng thức ăn không mang mầm bệnh: Các loại thức ăn tổng hợp và tự chế biến cần được bảo quản tốt, tránh mốc, vón và nhiễm khuẩn. Bởi nấm mốc trong thức ăn tổng hợp hay trong nguyên liệu để sản xuất thức ăn tổng hợp có thể sinh ra trong thức ăn viên một loại độc tố (Aflatoxin) gây hoại tử gan nghiêm trọng ở động vật thủy sản nuôi nói chung và tôm nuôi nói riêng.

– Có thể làm tăng hệ miễn dịch tự nhiên của tôm bằng cách quản lý môi trường ao nuôi thích hợp và ổn định; đồng thời bổ sung một số sản phẩm như vitamin C, A, E, và  Glucan và hạn chế dùng các hóa chất, kháng sinh.

– Ngăn chặn sự có mặt của các nhân tố gây độc cho gan tụy tôm như các ion kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật…có trong nước của bể ấp và ao nuôi. Có thể dùng EDTA để tạo phức kết tủa và tách các ion kim loại nặng ra khỏi nguồn nước cần sử dụng.

– Khi bệnh đã xảy ra, trước khi xả bỏ tôm bệnh, cần dùng thuốc diệt khuẩn (Chlorine, formol) để sát trùng nước.

Theo Khuyến Ngư Việt Nam

Tin mới nhất

T6,22/11/2024