Bã rượu khô: Protein thay thế bột cá trong chế độ ăn của tôm giống

[Người nuôi tôm] – Bổ sung bã rượu khô nguồn protein thay thế bột cá trong chế độ ăn của tôm ở mức 8% không ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng, miễn dịch và khả năng kháng bệnh do vi khuẩn Vibrio parahaemoliticus gây ra trên tôm.

 

Bã rượu khô (DDGS) là một trong những sản phẩm phụ được sử dụng từ thế FM trong thức ăn tôm. Chúng có được từ các dẫn xuất của quá trình lên men ngũ cốc và sau khi chưng cất sản ngành công nghiệp rượu và có thể thay xuất rượu (Goda & cs., 2019). DDGS chứa protein, lipid và vitamin, tất cả đều là những chất dinh dưỡng cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của động vật thủy sản.

Bã rượu khô. Ảnh: ST

 

Phương pháp nghiên cứu

Chế độ ăn thử nghiệm có chứa bột cá (FM), bột đậu nành (SBM) và bột đậu phộng (PM) là nguồn protein chính. Nguồn lipid bao gồm dầu cá (FO), dầu đậu nành (SBO), lecithin đậu nành và các axit amin (AA), như bổ sung lysine, methionine và threonine. Thức ăn thử nghiệm thay thế FM bằng bã rượu khô (DDGS) với các mức khác nhau trong tổng khẩu phần ăn:

+ Đối chứng: Không bổ sung DDGS.

+ Nghiệm thức D2: Bổ sung 2% DDGS.

+ Nghiệm thức D4: Bổ sung 4% DDGS.

+ Nghiệm thức D6: Bổ sung 6% DDGS.

+ Nghiệm thức D8: Bổ sung 8% DDGS.

+ Nghiệm thức D12: Bổ sung 12% DDGS.

+ Nghiệm thức D16: Bổ sung 16% DDGS.

Tác động đến sự tăng trưởng, chức năng chống oxy hóa trên tôm

Khoảng 22.000 con tôm giống được nuôi trong bể (4,5m x 3,45m x 1,8m) trong 14 ngày với thức ăn công nghiệp. Sau khi thích nghi, tôm bị bỏ đói 24 giờ, sau đó được cân và chọn những con khỏe mạnh có trọng lượng trung bình 0,23 ± 0,00g. Thí nghiệm được chia thành 7 nhóm với 3 lần lặp lại, sử dụng 21 bể nhựa (0,3m³) thả 40 con/bể, cho ăn 4 lần/ngày trong 8 tuần với 10% trọng lượng cơ thể. Tôm được theo dõi 1 giờ sau khi cho ăn và những con không ăn sẽ được lấy ra hàng ngày. Sau khi thử nghiệm cho ăn 56 ngày, tôm nhịn ăn trong 24 giờ trước khi thu hoạch. Tôm trong mỗi bể được đếm, đo và xác định tốc độ tăng trưởng (WGR), tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR), tỷ lệ chuyển hoá thức ăn (FCR) và tỷ lệ sống.

Khả năng kháng bệnh vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh trên tôm

10 con tôm được chọn ngẫu nhiên từ mỗi bể để thử nghiệm cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Nồng độ vi khuẩn được tiêm vào tôm là 107 CFU/ml. Những thay đổi về mặt sinh lý của tôm được kiểm tra hàng ngày và tôm chết được loại bỏ thường xuyên. Tỷ lệ chết tích lũy được tính sau khi tôm được thử thách trong 7 ngày.

Kết quả nghiên cứu

Tăng trưởng và thành phần cơ thể trên tôm giống

Sau 8 tuần cho ăn tôm bằng chế độ ăn DDGS, kết quả về hiệu suất tăng trưởng được trình bày trong Bảng 1. Trong số các nhóm thử nghiệm khác nhau, tôm được cho ăn chế độ ăn D8 có tốc độ tăng trưởng được cải thiện (13,00 ± 0,68g trọng lượng cuối cùng) và tốc độ tăng trưởng 64,00% nhưng không khác biệt đáng kể so với tôm được cho ăn chế độ ăn D0. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của D12 và D16 thấp hơn đáng kể so với D0-D8. Ngoài ra, FCR thấp ở tôm được cho ăn D6 và D8 so với tôm được cho ăn chế độ ăn đối chứng D0. Tỷ lệ sống của tôm dao động từ 76,6 – 92,50% (Bảng 1).

Bảng 1. Tác động của việc thay thế FM bằng DDGS đến hiệu suất tăng trưởng ở tôm giống

Trọng lượng ban đầu = IW, Trọng lượng cuối cùng = FW, Tốc độ tăng trưởng = WGR, Hệ số chuyển hoá thức ăn = FCR, Tỷ lệ tăng trưởng cụ thể = SGR, Tỷ lệ sống sót = S.

Cuối thử nghiệm cho ăn kéo dài 8 tuần, chế độ ăn cho tôm với các mức DDGS khác nhau cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về độ ẩm, protein thô và hàm lượng tro. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể về lipid thô, với lipid thô ban đầu tăng lên rồi sau đó giảm khi lượng DDGS trong chế độ ăn tăng.

Hoạt động enzyme tiêu hóa trên tôm giống

Việc thay thế FM bằng DDGS ảnh hưởng đến hoạt động của các enzyme tiêu hóa ở ruột giữa của tôm, cụ thể là trypsin và amylase, với sự khác biệt đáng kể (P < 0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về hoạt động của lipase giữa các nhóm ăn chế độ ăn DDGS và nhóm đối chứng (D0) (P > 0,05).

Hình 1. Tác động của việc thay thế FM bằng DDGS lên enzyme tiêu hóa trong ruột giữa của tôm

A; Trypsin, B; Amylase, C; Lipase. D0 = (0%), D2 = (2%), D4 = (4%), D6 = (6%), D8 = (8%), D12 = (12%), D16 = (16%)

 

Phân tích mô học ruột giữa, gan ở tôm giống

Phân tích mô học ruột giữa

Quan sát mô học cho thấy việc bổ sung DDGS vào chế độ ăn cho tôm thẻ chân trắng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến cấu trúc ruột của tôm. Không có sự khác biệt đáng kể về chiều cao nhung mao (VH) và độ dày thành ruột (IWT) giữa các nhóm xử lý. Tuy nhiên, độ dày lớp cơ của tôm được cho ăn D8 có VH và IWT tăng cường, nhưng không khác biệt đáng kể so với các nhóm xử lý khác (P < 0,05). Không có thay đổi nghiêm trọng nào về cấu trúc ruột của tôm khi sử dụng DDGS thay thế FM trong chế độ ăn thử nghiệm so với nhóm đối chứng, ngoại trừ các nhóm D6 và D7 (Hình 2). Các nếp niêm mạc được quan sát thấy tách khỏi lớp cơ trong tất cả các nhóm điều trị, và tôm ăn chế độ ăn D4 và D6 có nếp niêm mạc ở ruột giữa. 

Hình 2. Ảnh hưởng của việc thay thế FM bằng DDGS lên mô học ruột của tôm

Chiều cao nhung mao = VH, độ dày thành ruột = IWT. D1 = (0%), D2 = (2%), D3 = (4%), D4 = (6%), D5 = (8%), D16 = (12%), D17 = (16%).

 

Phân tích mô học gan

Mô học gan tụy của tôm cho thấy những thay đổi từ nhẹ đến nghiêm trọng sau các thử nghiệm cho ăn. Tôm ăn chế độ ăn D8 có nhiều tế bào E hơn so với nhóm đối chứng, trong khi tế bào B ít hơn ở tôm ăn chế độ ăn D12 và D16. Ngoài ra, các ống gan tụy ở nhóm D8 được sắp xếp gần nhau và trông đẹp mắt, bao gồm cả màng đáy, trong khi tôm ăn chế độ ăn D12 và D16 cho thấy khoảng cách lớn giữa các ống gan tụy.

Khả năng kháng bệnh do Vibrio parahaemoliticus gây ra trên tôm

Tỷ lệ chết tích lũy sau cảm nhiễm với Vibrio parahaemoliticus sau thử nghiệm cho ăn được trình bày trong Hình 3. Sau thử nghiệm cảm nhiễm, tôm trong nhóm D12 được thử nghiệm với Vibrio parahaemoliticus có tỷ lệ chết cao hơn đáng kể so với tôm trong các nhóm khác có chế độ ăn DDGS. Tuy nhiên, khi thử nghiệm thử thách kết thúc, tỷ lệ chết của tôm trong nhóm D8 là 50,9%, thấp hơn đáng kể (P < 0,05) so với chế độ ăn đối chứng (D0) là 68,3%.

Hình 3. Tác động của việc thay thế FM bằng DDGS lên thử nghiệm thách thức sau khi tiêm Vibrio Parahaemolyticus vào tôm

 

Quan điểm

Bã rượu khô (DDGS) có thể thay thế 8% thức ăn cá (FM) trong chế độ ăn của tôm mà không ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng và sức khỏe. Tuy nhiên, việc thay thế FM bằng nồng độ DDGS cao hơn có thể làm giảm hiệu suất tăng trưởng và khả năng miễn dịch của tôm. Việc sử dụng DDGS cũng cải thiện chức năng miễn dịch, phân tích mô học trong ruột và gan tụy, cũng như hoạt động của enzyme tiêu hóa. Tỷ lệ chết của tôm giảm khi cho ăn chế độ ăn DDGS (D8) sau thử nghiệm cảm nhiễm, nhưng điều này chỉ đạt được khi bổ sung axit amin, do thành phần axit amin trong FM và DDGS khác nhau. Quá nhiều DDGS có thể cản trở hiệu suất tăng trưởng và chức năng miễn dịch của tôm. 

Bài viết được dịch bởi nghiên cứu của Gyan, W. R., Yang, Q. H., Tan, B., Xiaohui, D., Chi, S., Liu, H., & Zhang, S. (2021). Effects of replacing fishmeal with dietary dried distillers grains with solubles on growth, serum biochemical indices, antioxidative functions, and disease resistance for Litopenaeus vannamei juveniles. Aquaculture Reports, 21, 100821.

Hảo Mai (Lược dịch)