[Người Nuôi Tôm] – Các bệnh nguy hiểm do vi khuẩn, virus cũ và mới xuất hiện đã ảnh hưởng trầm trọng đến ngành tôm. Vài năm trở lại đây, nhiều quốc gia châu Á đã bắt đầu phát triển, sự dụng công nghệ sản xuất biofloc và hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn RAS, xử lý nguồn nước đầu vào, nước thải cho các hoạt động nuôi, áp dụng an toàn sinh học phòng, chống dịch bệnh.
Ao đơn sử dụng quản lý kênh chung
Sơ đồ hệ thống nuôi ao đơn và quản lý kênh chung ở trang trại nuôi tôm Dipasena, Indonesia
Ban đầu, trang trại được thiết kế và xây dựng dựa trên các đơn vị vận hành ao nuôi và một hệ thống kênh quản lý chung. Các ao được bố trí thành hàng với các kênh cấp và xả nước ở hai phía đối diện. Các kênh xả chính được xây dựng không chỉ để xả nước từ các ao nuôi mà còn được sử dụng làm đường dẫn nước cho các mục đích quản lý hậu cần bằng xuồng cao tốc hoặc sà lan. Nguồn nước được lấy trực tiếp từ khu vực bờ biển, nước thải xả ra các con sông lớn ở thượng nguồn giáp ranh với các khu vực nuôi. Các hoạt động sản xuất sử dụng kênh mương và một hệ thống ao duy nhất để sản xuất tôm sú cho đến khi xuất hiện mầm bệnh do virus gây ra, đặc biệt là WSSV những năm 1990. Hầu hết các trang trại nuôi tôm ở các nước, trong đó có Indonesia, đã bắt đầu điều chỉnh cách hoạt động, có thêm các ao trữ nước để xử lý nước nuôi trước khi sử dụng. Tuy nhiên, công ty Dipasena (một trang trại nuôi tôm lớn ở Indonesia) vẫn tiếp tục hoạt động bằng hệ thống ao nuôi đơn, dẫn đến sản lượng nuôi đạt được ở mức thấp và không bền vững.
Khi quá trình quản lý mới được tiến hành vào năm 2006, hệ thống ao nuôi đơn được thiết kế lại thành các mô-đun với 20% ao chứa ở phía kênh cấp chính. Việc thực hiện hệ thống mô đun này đã làm hồi sinh hoạt động sản xuất, dẫn đến việc sản xuất ổn định, áp dụng trao đổi nước tối thiểu và chỉ sử dụng nước đã được xử lý trong các ao nuôi. Tuy nhiên, mô hình này không có hệ thống xử lý nước thải ra từ ao nuôi trong suốt quá trình vận hành và thu hoạch. Vào thời điểm đó, cơ sở này cũng chuyển sang nuôi một loài mới, tôm thẻ chân trắng.
Sơ đồ một mô-đun của trang trại nuôi tôm Dipasena
Ao đơn có hệ thống xử lý nước thải
Trang trại nuôi tôm PT Sekar Abadi Jaya (SAJ) ở miền Tây Sumbawa, Indonesia, đã sử dụng nước biển trực tiếp cho các ao nuôi tôm của mình. Trang trại có một hệ thống xử lý nước thải hiệu quả bắt đầu với bể lắng và kênh nước chảy (racewway). Chất thải được xử lý qua hai giai đoạn trước khi thải trở lại đại dương (đã được Bộ Môi trường Indonesia kiểm tra và phê duyệt).
Sơ đồ một mô-đun có hệ thống xử lý nước thải của SAJ ở Sumbawa.
Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn
Trang trại nuôi tôm P.T. Central Pertiwi Bahari (CPB) ở Lampung, Nam Sumatra, Indonesia, thuộc tập đoàn C.P hoạt động trên cơ sở mô-đun, mỗi mô-đun có 40 – 60 ao hình vuông, mỗi ao có diện tích 0,5 ha, có ao trữ nước và ao xử lý chất thải riêng, có một kênh tuần hoàn từ ao sản xuất sản xuất chảy vào ao lắng. Diện tích mặt nước của ao trữ/ao lắng từ 20 – 25% diện tích mặt nước ao nuôi. Hệ thống trang trại được thiết kế lại với sự trao đổi nước tối thiểu hoặc không thay nước vào các giai đoạn nhất định trong chu kỳ nuôi.
Sơ đồ Mô-đun của hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) của CPD, Indonesia
Ao đơn có ao chứa và hệ thống xử lý nước thải
Trang trại ở Kedah, phía tây bắc của Kuala Lumpur, Malaysia đã được thiết kế hệ thống mô-đun an ninh sinh học từ các dãy ao đơn được bao phủ bằng polyethylene mật độ cao (HDPE) và các ao chứa để xử lý nước. Hai mô-đun được lót hết bằng bạt HDPE, các mô-đun còn lại chỉ được lót bờ bên trong ao. Trang trại vẫn có 226 ao, nhưng mỗi mô-đun mới bao gồm 20 ao, diện tích 0,8 ha/ao và hai ao nuôi cá với diện tích từ 0,4 – 0,6 ha. Bốn ao (0,8 ha/ao) bên cạnh các kênh cấp chính đã được sửa đổi thành các ao trữ nước cho mỗi mô-đun.
Tất cả các cửa cống cấp và xả đã được xây dựng lại để tăng tính an toàn sinh học, đảm bảo không bị rò rỉ. Một hệ thống thoát nước trung tâm đã được lắp đặt để thoát bùn trong quá trình nuôi và làm tăng sức tải của ao nuôi. Hệ thống cung cấp nước biển chuyển nước qua bốn ao xử lý trước khi đến các ao nuôi – điều này đảm bảo chỉ có nước được xử lý đi vào các ao nuôi trong một mô-đun.
Mô-đun cơ bản có hệ thống xử lý nước đầu vào và hệ thống xử lý nước thải
Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS)
Dự án iSHARP ở Malaysia được thiết kế như một hệ thống nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS). Tất cả nước thải được đưa trực tiếp đến một ao lắng chính để xử lý nhằm tái sử dụng hoặc thải ra lại môi trường. Hệ thống xử lý có 4 pha: ngoại trừ ao lắng ra thì kênh xử lý có độ lớn thứ nhất và thứ hai chứa cá, vẹm, hào, rong biển để lọc sinh học các hạt lơ lửng và nitrat hóa các chất thải hòa tan, hai ao còn lại có sục khí và xử lý hóa học (bằng chlorin hoặc vôi) trước khi nước được cho quay trở lại kênh cấp chính để tái sử dụng hoặc thải ra bên ngoài. Các thông số chất lượng nước như: nhu cầu oxy hóa học và nhu cầu oxy sinh hóa, tổng đạm amon (Total ammonia nitrogen – TAN) cũng như phospho được kiểm tra thường xuyên dựa theo yêu cầu của chính quyền địa phương.
Sơ đồ hệ thống nuôi tôm RAS của dự án iSHARP
Triển vọng và tầm nhìn
Có nhiều kiểu hệ thống được người nuôi tôm ở châu Á sử dụng, từ quản lý trên cơ sở các ao đơn cho đến các hệ thống RAS lớn hơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hệ thống chưa làm giảm được tác động của chúng đối với môi trường do lượng nước thải ra. Các nhà đầu tư và những người nuôi tôm quy mô nhỏ cần phải biết đến các hệ thống sản xuất hiện có khác để có cơ hội lựa chọn. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp nuôi tôm cần tìm ra cách để ngăn chặn tốt hơn những ảnh hưởng này, bao gồm cả việc thực hiện nhiều hơn các chương trình chứng nhận như “Thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất” của Liên minh Nuôi trồng thủy sản toàn cầu.
Theo Nyan Taw, PH.D
Shrimp Aquaculture Consultant Former Sr. Technical Adviser/GM Blue Archipelago BHD, Malaysia, CTA of FAO Projects of the UN, and SVP/ VP of integrated shrimp farming companies (Dipasena and CPB) in Indonesia, Kuala Lumpur, Malaysia
- công nghệ ras li>
- Hệ thống nuôi tôm thâm canh li>
- nuôi tôm công nghệ ras li> ul>
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Aquaculture Vietnam sẽ trở lại vào tháng 3 năm 2026
- Giá tôm tăng tại Trung Quốc khi nguồn cung giảm từ Ecuador, Ấn Độ
Tin mới nhất
T6,22/11/2024
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Sản xuất tôm giống Cà Mau chỉ đáp ứng 50% nhu cầu
- Giá tôm lao dốc, nông dân gặp khó
- Inforgraphic: Ngành tôm 6 tháng đầu năm 2024
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
- CEO Chuang Jie Cheng: Vị thuyền trưởng – chắc chèo vững lái vượt sóng thành công
- Loay hoay ‘bài toán’ thiếu hụt nguyên liệu ở ngành thủy sản
- Ra mắt bộ 3 cuốn sách Toàn cảnh ngành chăn nuôi, thú y, thủy sản Việt Nam
- Nhiều mặt hàng thủy sản xuất khẩu bứt phá tăng trưởng cao
- Vướng mắc tại các thị trường nhập khẩu thủy sản lớn
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt