Trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) diện tích nuôi tôm nước lợ năm 2023 đạt 677.781ha; tổng sản lượng đạt 939.701 tấn (tôm sú 258.512 tấn, tôm thẻ 681,189 tấn); chiếm tỷ trọng 93% và sản lượng chiếm 86% so với cả nước.
Nông dân xã Hiệp Thạnh, thị xã Duyên Hải nuôi tôm công nghệ cao.
Trong các tỉnh ĐBSCL, tính theo diện tích, Trà Vinh xếp thứ 06, với 31.542ha; tính theo sản lượng, Trà Vinh thứ 05, đạt 91.750 tấn; về năng suất, Trà Vinh giữ vị trí thứ 03, với 10,89 tấn/ha. Tuy nhiên, đánh giá về hiệu quả, tại hội thảo về giải pháp thúc đẩy phát triển ngành nuôi tôm nước lợ được tổ chức vào ngày 15/3, tại thị xã Duyên Hải, các diễn giả đã nêu những hạn chế và cần 06 giải pháp, nhiệm vụ để phát triển.
Nuôi tôm của người dân Trà Vinh được hình thành từ đầu năm 1990. Thời gian đầu chủ yếu phát triển theo hình thức quảng canh cải tiến và bán thâm canh. Đến năm 2000, sau khi Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển các trại sản xuất giống và nuôi thâm canh cùng với sự ra đời của mạng lưới hậu cần dịch vụ: giống, thức ăn, thuốc hóa chất, thu mua, chế biến… thì hình thức nuôi thâm canh tôm sú mới bắt đầu phát triển mạnh.
Qua hơn 20 năm phát triển, với sự quyết tâm của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nông dân, đến nay ngành tôm nước lợ của tỉnh đã và đang phát triển theo xu thế chung của khu vực ĐBSCL. Nhiều công trình điện, giao thông, thủy lợi được đầu tư nâng cấp, cải thiện; mạng lưới hậu cần dịch vụ từng bước đáp ứng nhu cầu; các hình thức nuôi luôn cập nhật, các tiến bộ kỹ thuật mới được ứng dụng cải tiến; công tác quản lý nhà nước ngày càng chặt chẽ kiểm soát tốt đầu vào, đầu ra… nên diên tích, sản lượng và giá trị đều tăng từng năm, góp phần nâng thu nhập bình quân, đời sống kinh tế người dân nông thôn.
Theo đồng chí Trần Trường Giang, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT), bằng sự nỗ lực của ngành chuyên môn, sự vào cuộc của nông dân, giai đoạn 2019 – 2023, diện tích, sản lượng và giá trị từ nuôi tôm nước lợ luôn tăng. Năm 2019, diện tích nuôi 28.230ha, năm 2023 là 31.650ha, tăng trưởng bình quân 3,6%/năm. Trong đó, diện tích nuôi tôm thâm canh mật độ cao từ 440ha năm 2019, lên 1.074ha năm 2023. Sản lượng tôm nước lợ chiếm tỷ trọng 50,4%/tổng sản lượng nuôi thủy sản của tỉnh và tăng dần: năm 2019, sản lượng đạt 59.703 tấn, chiếm 43,3% sản lượng thủy sản; năm 2023 đạt 90.031 tấn, chiếm 85%. Riêng nuôi thâm canh mật độ cao năm 2019 sản lượng đạt 12.438 tấn, năm 2023 đạt 35.438 tấn (tăng 185%).
Song song đó, giá trị sản xuất giai đoạn này tăng bình quân 10%/năm. Năm 2019, đạt 5.052 tỷ đồng; năm 2023, đạt 7.359 tỷ đồng. Về chi phí, qua thu thập thông tin từ các hộ nuôi trên địa bàn tỉnh, năm 2023, đối với những hộ nuôi có liên kết sản xuất, nuôi quy mô lớn, có năng lực về tài chính… lấy thức ăn, thuốc, hóa chất trực tiếp từ nhà sản xuất thì chi phí sản xuất thấp hơn từ 18 – 25%/tổng chi phí sản xuất so với các cơ sở nuôi nhỏ lẻ, thiếu vốn.
Về hiệu quả sản xuất, đối với tôm sú chi phí khoảng 79.500 đồng/kg, lợi nhuận 106.500 đồng/kg; tôm thẻ thâm canh ao đất, chi phí 70.000 đồng/kg, lợi nhuận khoảng 32.500 đồng/kg; tôm thẻ thâm canh mật độ cao, chi phí khoảng 88.000 đồng/kg, lợi nhuận 46.000 đồng/kg… Nhìn chung, tỷ suất lợi nhuận bình quân của nuôi tôm nước lợ ngày càng giảm do giá nguyên, vật liệu đầu vào tăng, phải tốn nhiều hóa chất xử lý môi trường và thuốc phòng trị bệnh… làm tăng chi phí từ 10 – 20% so với trước.
Với mục tiêu phát triển nuôi tôm nước lợ của tỉnh thành ngành sản xuất hàng hóa, hiệu quả cao, đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm và bền vững, góp phần quan trọng thực hiện thành công tái cơ cấu ngành thủy sản, năm 2024, tỉnh đề ra chỉ tiêu đạt diện tích nuôi tôm nước lợ 31.200ha (tôm sú 23.500ha, tôm thẻ 7.700ha), sản lượng 97.230 tấn (tôm sú 13.650 tấn, tôm thẻ 83.580 tấn) theo Phương án phát triển ngành tôm của tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (được phê duyệt theo Quyết định số 1925/QĐ-UBND, ngày 29/9/2022 của UBND tỉnh Trà Vinh).
Để đạt được các chỉ tiêu quan trọng, hiệu quả tương ứng với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, tại hội thảo về giải pháp thúc đẩy phát triển ngành nuôi tôm nước lợ, các diễn giả, lãnh đạo tỉnh, nhà chuyên môn đã đề cập đến nhiều giải pháp. Trong đó, cần tập trung 06 nhiệm vụ và giải pháp:
(1) Tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị ngành hàng, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò dẫn dắt toàn chuỗi và liên kết hài hòa lợi ích giữa người nuôi với doanh nghiệp.
(2) Triển khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển nuôi tôm hiện có. Liên doanh, liên kết với vùng ĐBSCL để mở rộng thị trường và khuyến khích các doanh nghiệp ngoài tỉnh đầu tư vào ngành tôm nước lợ của tỉnh.
(3) Đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ. Áp dụng công nghệ nuôi tiết kiệm nguồn nước, ứng dụng công nghệ tuần hoàn, công nghệ sinh học… gắn với các mô hình liên kết sản xuất hiệu quả giúp người nuôi, doanh nghiệp giảm thiệt hại và chủ động sản xuất. Phối hợp các Viện, Trung tâm nghiên cứu, trường đại học đẩy mạnh nghiên cứu, chọn tạo giống tôm tăng trưởng nhanh, sạch bệnh để chủ động cung cấp cho vùng nuôi tôm.
(4) Phối hợp chặt chẻ kết nối thông tin về nguồn gốc, chất lượng và các vấn đề liên quan đến chất lượng giữa các địa phương sản xuất tôm giống và nơi tôm giống được thả nuôi. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng thức ăn nuôi trồng thủy sản.
(5) Truyền thông, phổ biến về Luật Bảo vệ môi trường, quản lý ao nuôi thâm canh, thâm canh mật độ cao. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, kiên quyết xử lý triệt để những hành vi vi phạm các quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác dự báo về ảnh hưởng và tác động của biến đổi khí hậu đến từng vùng để xây dựng kế hoạch sản xuất tôm nước lợ phù hợp, giảm thiểu rủi ro, tổn thất.
(6) Sớm rà soát, nâng cấp, bổ sung hệ thống thủy lợi, điện, giao thông để phục vụ cho các vùng nuôi tôm thâm canh mật độ cao, tập trung.
Trường Nguyên
Báo Trà Vinh
- nuôi tôm li>
- nuôi tôm nước lợ li>
- Trà Vinh li> ul>
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Ngành tôm Ecuador 2025: Thách thức bủa vây
- Xuất khẩu tôm Quý I: Tín hiệu khởi sắc
- Cơ cấu giá thành nuôi tôm nước lợ tại Việt Nam
- TPD: Vụ tôm mới, nỗi lo cũ
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 3/2025
- Nuôi tôm dễ dàng, thành công vững vàng cùng thức ăn đa tầng STP của Japfa Việt Nam
- Hà Tĩnh: Sẵn sàng cho vụ tôm xuân – hè 2025
- MiXscience Asia: Bộ sản phẩm phòng ngừa EHP, EMS, WFS, WSSV, TPD
- Học hỏi công nghệ xử lý nước nuôi trồng thủy sản tiên tiến từ Israel
Tin mới nhất
T7,29/03/2025
- TAURINE: Hỗ trợ giảm thời gian chờ sinh sản của tôm mẹ
- Thực khuẩn thể: Bước tiến mới trong phòng trị bệnh vi khuẩn cho tôm
- Công cụ di động chẩn đoán virus đốm trắng trong 24 giờ
- VHVP-2: Đặc điểm gen trong Vibrio gây bệnh TPD
- Bệnh đốm trắng: Nguyên nhân chính gây giảm năng suất tôm
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Oxy sinh học và oxy hóa học: Sự khác biệt về nhu cầu
- Công nghệ thông minh AIoT: Cơ hội chuyển mình cho ngành thủy sản
- Di truyền tôm thẻ chân trắng: Xu hướng hiện tại và tương lai
- TPD trên tôm: Những hiểu biết trong chẩn đoán và phòng bệnh
- Sản lượng tôm toàn cầu ước đạt 6 triệu tấn vào năm 2025
- Cà Mau giữ vững vị thế xuất khẩu tôm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
- Nuôi tôm nước lợ công nghệ cao, nông dân Bến Tre thu về hơn 6.300 tỷ đồng
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Giá trị xuất khẩu thủy sản khởi sắc những tháng đầu năm
- Tăng cường kiểm soát thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu
- Đề xuất thành lập “nhóm đặc nhiệm” về thương mại nông sản Việt Nam – Singapore
- Hà Nội thúc đẩy phát triển nguồn lợi thủy sản
- Sản lượng thủy sản tháng đầu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Xác nhận thực tế về giải pháp thức ăn mới có lợi cho việc giảm thiểu EHP ở Đông Nam Á
- Huyền Rơm: Bông hồng trẻ đam mê nghiên cứu vi sinh thủy sản
- Kết quả sản xuất tôm nước lợ năm 2024 tại các địa phương
- Grobest: Nâng tầm tôm Việt với di sản 50 năm phát triển bền vững
- 10 vụ tôm liên tiếp thành công cùng mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Grobest
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống