Quy định phòng chống dịch bệnh động vật thuỷ sản: Giảm rủi ro, bảo vệ quyền lợi

[Người Nuôi Tôm] – Thông tư số 39/VBHN-BNNMT do Bộ NN&MT ban hành ngày 11/8/2025, quy định chi tiết về phòng chống dịch bệnh động vật thủy sản và quan trắc môi trường, tạo khung pháp lý rõ ràng để bảo vệ nguồn lợi, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh và hướng ngành thủy sản phát triển bền vững.

Kiểm soát dịch bệnh và bảo vệ môi trường là nền tảng của nuôi trồng thủy sản bền vững. Ảnh sưu tầm

 

Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

Với phạm vi điều chỉnh rộng, Thông tư 39 bao quát toàn bộ chuỗi giá trị thủy sản – từ sản xuất giống, nuôi trồng, vận chuyển đến chế biến và áp dụng cho tất cả tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Điểm nổi bật là sự tích hợp giữa quản lý dịch bệnh với bảo vệ môi trường, coi đây là hai yếu tố gắn liền trong phát triển bền vững thủy sản.

Trong đó, các định nghĩa từ ngữ được làm rõ để tránh nhầm lẫn, như “cơ sở nuôi” bao gồm ao, đầm, hồ, lồng bè; “bệnh mới” là những bệnh chưa có trong danh mục phải công bố dịch nhưng có khả năng lây lan nhanh và gây chết hàng loạt. Danh mục bệnh phải công bố dịch được liệt kê tại Phụ lục I, bao gồm các bệnh nguy hiểm như bệnh đốm trắng trên tôm, bệnh xuất huyết trên cá tra và được rà soát định kỳ dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn sản xuất.

Nguyên tắc phòng chống dịch được nhấn mạnh là “phòng bệnh là chính”, kết hợp giám sát mầm bệnh chủ động, quan trắc môi trường và thu thập thông tin nuôi trồng. Trách nhiệm của chủ cơ sở nuôi, cơ quan thú y và cơ quan quản lý thủy sản các cấp được phân định rõ ràng, nhằm bảo đảm việc ghi chép, báo cáo dịch bệnh và triển khai biện pháp ứng phó kịp thời.

 

Quan trắc và cảnh báo môi trường

Một trong những điểm mới quan trọng là quy định về quan trắc và cảnh báo môi trường nuôi trồng thủy sản. Hoạt động này được thực hiện định kỳ, liên tục tại các vùng nuôi tập trung có diện tích lớn hoặc sử dụng chung nguồn nước. Thông số quan trắc bao gồm từ chỉ tiêu cơ bản (pH, nhiệt độ, độ mặn) đến các yếu tố vi sinh, kim loại nặng, hoá chất độc hại.

Cục Thủy sản và Kiểm ngư giữ vai trò hướng dẫn, phối hợp với cơ quan chuyên ngành địa phương xây dựng kế hoạch quan trắc 5 năm và hằng năm, trình Bộ phê duyệt. Khi phát hiện yếu tố bất lợi, đơn vị quan trắc có trách nhiệm báo cáo khẩn để đưa ra cảnh báo, giúp cơ sở nuôi điều chỉnh kịp thời, giảm nguy cơ dịch bệnh bùng phát.

Đặc biệt, dữ liệu quan trắc được quản lý bằng phần mềm thống nhất, kết nối từ Trung ương đến địa phương, tạo kho thông tin phục vụ dự báo, cảnh báo và điều hành. Chủ cơ sở nuôi cũng phải theo dõi, ghi chép và chia sẻ thông tin môi trường tại chỗ, góp phần vào hệ thống cảnh báo chung.

 

Giám sát và báo cáo dịch bệnh chặt chẽ

Giám sát dịch bệnh là nội dung cốt lõi, theo đó chủ cơ sở nuôi phải theo dõi lâm sàng hằng ngày, lấy mẫu xét nghiệm khi phát hiện dấu hiệu bất thường. Khi xuất hiện ổ dịch, báo cáo phải gửi lên cơ quan thú y xã, huyện và tỉnh trong vòng 2 – 3 ngày. Toàn bộ dữ liệu sẽ được nhập vào Hệ thống quản lý thông tin dịch bệnh động vật Việt Nam (VAHIS), bảo đảm thông tin chính xác và kịp thời.

Ngoài báo cáo đột xuất, chế độ báo cáo định kỳ cũng được áp dụng, từ cấp xã đến Trung ương. Phòng thử nghiệm có trách nhiệm báo cáo ngay khi phát hiện mầm bệnh nguy hiểm hoặc bệnh mới. Các biểu mẫu báo cáo được quy định thống nhất, giúp thuận tiện cho việc tổng hợp, phân tích và đưa ra biện pháp phòng chống.

Cẩm Anh

Tin mới nhất

T6,26/09/2025