Nuôi tôm độ mặn thấp: Thử nghiệm thay thế muối biển bằng hỗn hợp muối chi phí thấp

[Người Nuôi Tôm] – Nghiên cứu do Đại học Auburn đứng đầu, mục đích kiểm tra tính hiệu quả của hỗn hợp muối chi phí thấp để thay thế muối biển hoàn nguyên trong nuôi tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương tại đất liền, độ mặn thấp.

LCSM có khả năng thay thế hoàn toàn RSS, giảm chi phí sản xuất tổng thể trong các hệ thống sản xuất trong nhà và thúc đẩy nuôi tôm thẻ chân trắng ở Mỹ và các nơi khác. – Ảnh minh họa

 

Nuôi tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei) tại đất liền bằng nước giếng khoan có độ mặn thấp (2 – 5 g/l), trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn RAS, hoặc trong hệ thống biofloc trong nhà (<15 g/ L) – là một mô hình nuôi đang khá phổ biến tại nhiều nơi trên thế giới. Mô hình này xuất phát từ một số lợi thế của nội địa so với nuôi tôm ven biển, chẳng hạn như có thể sản xuất quanh năm, tăng cường an toàn sinh học, địa điểm nuôi tôm đa ​​dạng gần nhiều thị trường, giảm chi phí vận chuyển và khả năng cung cấp sản phẩm tươi sống cho người tiêu dùng.

Tùy thuộc vào hệ thống sản xuất và chiến lược, muối biển hoàn nguyên (RSS) được sử dụng cho một phần hoặc hầu hết các giai đoạn trong nuôi tôm. Đối với ao nuôi có độ mặn thấp, RSS thường được sử dụng cho giai đoạn ương giống, vì sự thích nghi thích hợp của tôm post (PL) từ nước biển có độ mặn cao (độ mặn ≥ 30 g/ L) sang độ mặn thấp là rất quan trọng. Trong trường hợp không có nguồn nước nuôi đáp ứng độ mặn hoặc nguồn nước biển độ mặn cao, các hệ thống RAS và biofloc trong nhà thường hoàn toàn phụ thuộc vào RSS. Các nhà sản xuất sử dụng nước có nồng độ và tỷ lệ ion như nước biển để tối ưu sự tồn tại và tăng trưởng của L . vannamei.

Tuy nhiên, một trong những thách thức chính mà người nuôi tôm trên đất liền tại Mỹ phải đối mặt ngày nay là chi phí cao của RSS (Quagrainie, K. 2015. Khả năng sinh lời của sản xuất tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương trong nhà: Litopenaeus vannamei, Nghiên cứu điển hình của Ngành công nghiệp Indiana, Mở rộng Đại học Purdue Fact Sheet), có thể buộc các nhà sản xuất tôm trong nhà tái sử dụng nước lợ được chuẩn bị bằng RSS cho càng nhiều chu kỳ nuôi càng tốt.

 

Hỗn hợp muối chi phí thấp

Mặc dù tầm quan trọng của natri (Na +), kali (K +), canxi (Ca2 +) và magiê (Mg2 +) để đáp ứng nhu cầu sinh lý của tôm thẻ chân trắng nuôi đã được nhấn mạnh, nhưng các yêu cầu cụ thể đối với từng ion và tỷ lệ ion vẫn chưa được biết rõ và có thể thay đổi tùy thuộc vào thành phần ion của nước nuôi.

Những hoàn cảnh đó liên tục buộc người nuôi tôm nội địa phải sử dụng RSS, và coi đó là lựa chọn an toàn nhất cho sự sống sót và tăng trưởng tối ưu của L. vannamei. Nồng độ Na +, K +, Ca2 + và Mg2 + (mg/ L) trong nước biển pha loãng 1 g/ L được cung cấp trong Bảng 1. Các nồng độ này có thể dễ dàng chuyển đổi thành độ mặn yêu cầu bằng cách sử dụng hệ số nhân trong Bảng 1 theo độ mặn cụ thể dùng cho sản xuất (Ví dụ: nồng độ Mg2 + trong nước biển pha loãng độ mặn 6 g/ L: 39,13 * 6 = 234,78 mg/ L).

Bảng 1: Các yếu tố nhân lên đối với Na +, K +, Ca2 + và Mg2 + (mg/ L) từ muối biển hoàn nguyên thương mại (RSS) được sử dụng để thu được nồng độ cation tương đương trong nước biển (Boyd 2018; https://www.aquearchalliance.org/advocate / xem lại-ion-mất cân bằng-trong-độ mặn thấp-tôm-nuôi trồng thủy sản /).

 

Hỗn hợp muối chi phí thấp (LCSM) được sử dụng trong các thử nghiệm được xây dựng dựa trên Parmenter, et al. để tạo ra nồng độ Na +, K +, Ca2 + và Mg2 + tương đương với nồng độ của nước biển pha loãng sử dụng natri clorua nông nghiệp, magie clorua, magie sunfat, muối kali (kali clorua), canxi clorua và natri bicacbonat (Bảng 2). Do sự thay đổi của nồng độ ion ở các độ mặn khác nhau, người nuôi phải điều chỉnh các hợp chất muối trong nước nuôi của họ dựa trên độ mặn mục tiêu và lượng nước.

Bảng 2: Lượng hỗn hợp muối chi phí thấp (LCSM) cần thiết để có được độ mặn 1 g/ L trong dung dịch 10.000 L dựa trên độ tinh khiết của hóa học.

* Dựa trên thông tin chi tiết về sản phẩm từ nhà sản xuất/ nhà phân phối.

a-Champion’s Choice, Cargill, Inc. Minneapolis, MN; b-Nedmag BV, Veendam, Hà Lan; c-Giles Chemical Waynesville, NC; d-Mosaic Global Sales, LLC, Lithia, FL; e-Industrial Chemicals, Inc. Birmingham, AL; f -Church và Dwight co., Inc. Ewing, NJ

 

Kết quả

Nhiều thử nghiệm dựa trên phòng thí nghiệm đã được thực hiện tại Trung tâm Thủy sản EW Shell thuộc Đại học Auburn ở Auburn (Alabama, Hoa Kỳ) và tại Trung tâm Nuôi cá Alabama (AFFC) thuộc Greensboro (Alabama), ở độ mặn 3, 6 và 15 g/ L để kiểm tra hiệu quả của LCSM trong nuôi tôm thẻ chân trắng L. vannamei. Đánh giá LCSM tại trang trại cùng sự thích nghi với độ mặn của PL được thực hiện trong hai hệ thống, dựa trên bể chứa được lắp đặt trên đê tiếp giáp với các ao nuôi tôm tại Greene Prairie Aquafarm (GPA) ở Alabama.

Bên trái: Chuẩn bị LCSM để được kiểm tra tại Greene Prairie Aquafarm (GPA) ở Alabama, Hoa Kỳ; Bên phải: Bể nuôi tôm GPA (và ao nuôi thương phẩm ở phía sau).

 

Nước thích nghi đã được chuẩn bị trước bằng cách sử dụng nước ao đã qua xử lý bổ sung RSS và LCSM theo các cách kết hợp khác nhau. Điều chỉnh độ mặn được thực hiện từ 32 g/ L đến độ mặn 1,5 g/ L (kích thước PL = 0,009 ± 0,02 gam) trong vòng ba ngày bằng cách bơm (~ 3,5 L/ phút) nước ao có độ mặn thấp (1,5 g/ L) vào mỗi bể.

Bên trái: Chuẩn bị các kết hợp khác nhau của nước thích nghi LCSM và RSS; Bên phải: Tôm post L. vannamei được sử dụng trong nghiên cứu.

 

Khi kết thúc thử nghiệm ương, không có sự khác biệt đáng kể nào được ghi nhận về tỷ lệ sống (89 – 94%) hoặc tốc độ tăng trưởng của hậu ấu trùng tôm giữa các nghiệm thức RSS và LCSM, được theo dõi trong 21 ngày sau khi thích nghi với độ mặn. Những kết quả này đã được xác nhận bởi các thử nghiệm ương 21 ngày trong phòng thí nghiệm, cũng không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống hoặc tăng trưởng của hậu ấu trùng tôm giữa các nghiệm thức RSS và LCSM ở tất cả các độ mặn (2, 6 và 15 g/ L) được kiểm tra.

Vào cuối các thử nghiệm tăng trưởng kéo dài 42 ngày, không có sự khác biệt nào được quan sát thấy về tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, khả năng điều hòa thẩm thấu hoặc nồng độ cation trong huyết cầu của tôm được nuôi trong các nghiệm thức RSS và LCSM ở độ mặn (3, 6 và 15 g/ L) đã kiểm tra. Kết quả phản ánh khả năng sử dụng LCSM để thay thế RSS mà không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm trong các giai đoạn sản xuất khác nhau của nuôi tôm nội địa có độ mặn thấp.

Điều quan trọng là phải làm nổi bật sự cần thiết phải điều chỉnh tính toán lượng muối khi xem xét sự khác biệt về độ tinh khiết và tạp chất của các nguồn muối thương mại khác nhau. Do đó, Bảng 2 sẽ chỉ chính xác đối với lô nguyên liệu cụ thể có sẵn tại thời điểm này để tạo ra các hỗn hợp muối khác nhau. Do đó, luôn khuyến cáo kiểm tra nồng độ ion của môi trường trước khi thả tôm. Ngoài ra, người ta thường thấy sự khác biệt về độ hòa tan của các hợp chất muối khác nhau do sự khác nhau về thành phần, sự sẵn có của các tạp chất và các yếu tố khác. Do đó, nên trộn kỹ các hợp chất muối với nước ngọt ít nhất hai ngày trước khi sử dụng.

Tóm lại, việc đơn giản hóa công thức muối hỗn hợp thay vì cân bằng tất cả các ion và khoáng vi lượng khác nhau đã tiết kiệm được khoảng 50% so với chi phí RSS cho nông dân nuôi tôm. Những kết quả này phản ánh tiềm năng của LCSM trong việc thay thế hoàn toàn RSS có thể làm giảm chi phí sản xuất tổng thể đối với các hệ thống nuôi tôm trong nhà, do đó kích thích sự phát triển của ngành công nghiệp tôm ở Mỹ và các khu vực khác trên thế giới.

By Harsha SC Galkanda-Arachchige, Ph.D. Tiến sĩ Luke A. Roy. Anita M. Kelly, Ph.D. and D. Allen Davis, Ph.D.

Tố Uyên

Theo Globalseafood

Tin mới nhất

T6,22/11/2024