LỒNG BÈ
Khác với nuôi biển quy mô nhỏ bằng lồng gỗ, ở nuôi lồng bè theo công nghệ Na Uy, hệ thống lồng tròn được sản xuất bằng chất liệu nhựa chịu lực HDPE có thể tích mỗi lồng nuôi 1.200 – 2.400 m3, kết nối với nhau và với neo giàn, mỗi neo nặng 3 -4 tấn, chịu được bão gió cấp 12. Hệ thống cho phép nuôi ở những vùng biển xa bờ nơi môi trường nước trong sạch, do đó có thể hạn chế nguy cơ ô nhiễm và dịch bệnh; kiểm soát được chất lượng ATTP; tránh xung đột với các lợi ích khác như giao thông vận tải thủy, du lịch ở những vùng vịnh kín sóng gió (Nguyễn Quang Huy, 2016).
Vị trí đặt lồng nuôi cho phép lưu tốc dòng chảy <1 m/s, độ sâu khoảng 15 – 30 m, độ mặn 20 – 30 %0 (phù hợp với hầu hết các loài cá biển nuôi hiện nay). Nhiệt độ phù hợp nhất trong khoảng 24 – 290C; Độ đục thông thường 60 – 80 cm, trong điều kiện mưa, có phù sa thì độ đục tối thiểu 20 cm (đo bằng đĩa secchi từ bề mặt nước); Nền đáy cát bùn, cát sỏi.
CHỌN CÁ GIỐNG
Quan sát tại chỗ: Cá phải khỏe mạnh, đồng đều về kích cỡ, không bị xây xát, dị hình, 2 mắt sáng, hoạt động nhanh, sống tụ đàn.
Kiểm tra hồ sơ (rất cần nếu có thể): Cá bố mẹ, nhật ký quá trình ương nuôi, bệnh và biện pháp đã xử lý, kháng sinh đã sử dụng
Kiểm tra mầm bệnh: Lấy mẫu đi kiểm tra hoặc xem xét hồ sơ kiểm nghiệm của trại giống, cá giống đảm bảo không mang các mầm bệnh, không lở loét.
THẢ CÁ GIỐNG
Cá giống mới vận chuyển đến trước khi thả vào lồng nuôi cần tiến hành tắm nước ngọt hoặc Formalin nồng độ 37% pha loãng 10 – 15 ml/100 lít nước, tắm trong 20 – 40 phút để loại bỏ các loài sinh vật ngoại ký sinh trên cá.
Thường thả cá vào lúc mát trời, chênh lệch nhiệt độ không khí với nhiệt độ nước thấp, tốt nhất là trước 8 – 9 giờ sáng hoặc sau 6 – 7 giờ chiều.
Mật độ thả, tùy thuộc vào các loài, kích thước cá giống lúc thả và cỡ cá thương phẩm sẽ có mật độ thả giống khác nhau.
Ở giai đoạn giống nhỏ, cá được phân cỡ và san thưa 2 tuần/lần nhằm tạo sự đồng đều về kích thước cá và mật độ nuôi phù hợp theo từng giai đoạn. Năng suất cá tại thời điểm thu hoạch 5 – 7 kg/m3 lồng là cơ sở để duy trì mật độ trong quá trình nuôi.
CHO ĂN
Hiện nay, sử dụng cá tạp làm thức ăn nuôi cá biển vẫn đang phổ biến, nhất là trong nuôi truyền thống. Việc sử dụng cá tạp cho cá ăn sẽ dễ gây ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, khó kiểm soát nguồn thức ăn, không chủ động số lượng và chất lượng. Sử dụng thức ăn công nghiệp có thành phần dinh dưỡng bổ sung đáp ứng nhu cầu của từng loài cá nuôi và có nhiều ưu điểm hơn.
Giai đoạn cá giống, thường cho ăn 3 – 5 lần/ngày. Giai đoạn nuôi lớn, cho ăn 2 lần/ngày: sáng sớm (7 – 8 giờ) và chiều muộn (6 – 8 giờ). Lượng thức ăn dao động 3 – 5% tổng khối lượng đàn cá trong lồng nuôi, kết hợp quan sát tình trạng của cá để cho ăn với lượng vừa đủ theo nhu cầu.
Cá đươc cho ăn han g ngaỳ bằng máy cho ăn tự động (nhat là trong giai đoan gion g). Nguyên tac cho ăn, thưc ăn phải phân bố đều để cá có thể bắt đươc mồi dễ dan g, cho an đủ lượng, không để dư thừa.
THEO DÕI TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE
Hàng ngày quan sát cá bơi lội và khả năng bắt mồi, lượng thức ăn sử dụng. Nếu thấy biểu hiện khác thường như cá bơi lội kém linh hoạt, đổi màu, cá ăn kém hoặc bỏ ăn thì giảm lượng thức ăn hoặc không cho cá ăn, sau đó tiến hành kiểm tra bệnh, môi trường để có biện pháp xử lý kịp thời.
Định kỳ lặn kiểm tra đáy lồng, cá chết hay yếu thường chìm ở đáy. Kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá về khối lượng và kích thước để điều chỉnh chế độ chăm sóc và tính khẩu phần thức ăn cho cá phù hợp dựa trên tổng khối lượng cá trong lồng. Qua đó đánh giá chất lượng, thành phần thức ăn.
KIỂM TRA, BẢO DƯỠNG VÀ VỆ SINH LỒNG
Hàng tuần kiểm tra toàn bộ lồng gồm cấu trúc khung lồng, lưới, hệ thống dây phao, dây neo, neo để phát hiện kịp thời các sự cố có thể xảy ra và có biện pháp khắc phục kịp thời. Vệ sinh lồng sẽ tăng cường lưu thông nước giữa môi trường trong lồng và ngoài vùng nuôi, bổ sung hàm lượng ôxy, tạo môi trường tốt cho cá sinh trưởng. Ngoài ra, việc vệ sinh, gia cố các thiết bị, phụ kiện lồng làm cho lồng nhẹ, giảm bớt áp lực lên hệ thống dây, phao và neo lồng, bảo đảm an toàn cho lồng. Định kỳ 3 – 4 tuần/lần (tùy điều kiện cụ thể) thay lưới mới vừa đảm bảo an toàn vừa tạo sự lưu thông nước giữa môi trường trong và ngoài lồng nuôi. Thu hoạch Tùy theo loài cá nuôi và thị trường tiêu thụ để quyết định cỡ thương phẩm thu hoạch phù hợp.
HQ
- công nghệ Na Uy li>
- nuôi cá lồng li>
- Nuôi cá lồng công nghiệp li> ul>
- Chế độ ăn cho tôm đực: Thức ăn tươi và thức ăn công thức
- SSP: Chào đón các “ông lớn” ngành thức ăn chăn nuôi gia nhập
- Bangladesh: Xuất khẩu tôm gặp khó do thiếu hụt nguồn cung
- Nuôi tôm: Sinh kế phải gắn với kinh tế
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
Tin mới nhất
T2,25/11/2024
- Chế độ ăn cho tôm đực: Thức ăn tươi và thức ăn công thức
- SSP: Chào đón các “ông lớn” ngành thức ăn chăn nuôi gia nhập
- Bangladesh: Xuất khẩu tôm gặp khó do thiếu hụt nguồn cung
- Nuôi tôm: Sinh kế phải gắn với kinh tế
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt