Nghiên cứu hỗ trợ sử dụng vi khuẩn trong nuôi tôm

Theo một nghiên cứu mới của Tiến sĩ CR Subhanshini từ Agritogene Biosciences và Jaideep Kumar từ Aquaculture Outlook trên đối tượng tôm thẻ chân trắng, vi khuẩn có thể chứng minh một giải pháp thay thế hiệu quả cho việc sử dụng thuốc kháng sinh để đối phó với nhiễm khuẩn Vibrio trong nuôi tôm.

Vi khuẩn ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu chọn lựa thay thế cho kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản

Một trong những yếu tố hạn chế chính trong sự phát triển của ngành tôm là sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh, bao gồm cả vi khuẩn Vibiro. Bên cạnh đó, việc sử dụng kháng sinh để điều trị chúng đã gây ra tình trạng kháng kháng sinh (AMR). Nghiên cứu gần đây đã cho thấy rằng, 70% vi khuẩn Vibrio được phân lập từ các môi trường nuôi trồng thủy sản đa kháng thuốc. Ngoài ra, vấn đề tồn dư kháng sinh cũng đang được quan tâm, đây là nguyên nhân khiến nhiều lô tôm bị từ chối nhập khẩu trong những năm qua.

Liệu pháp vi khuẩn

Vi khuẩn bám vào các vật chủ cụ thể và tiêu diệt chúng bằng cách nhân lên bên trong và ly giải vi khuẩn. Việc sử dụng vi khuẩn để kiểm soát nhiễm trùng do vi khuẩn trong hệ thống sản xuất thức ăn thủy sản có tiềm năng lớn hơn để giải quyết vấn đề kép là kiểm soát nhiễm trùng do vi khuẩn và đồng thời tránh ô nhiễm dư lượng. Các nhà nghiên cứu cho rằng việc ứng dụng của thể thực khuẩn trong nuôi trồng thủy sản có lợi hơn so với việc sử dụng kháng sinh.

Việc sử dụng thực khuẩn thể để kiểm soát sinh học các mầm bệnh trên tôm nuôi đã được quan tâm trong những năm gần đây vì phương pháp này không để lại dư lượng thuốc cũng như độc tính của thuốc. Chúng thường được tìm thấy với số lượng lớn ở bất cứ nơi nào vật chủ của chúng sinh sống như trong nước thải, trong đất, trong trại giống hoặc trong các vùng nước tự nhiên.

Một trong những nỗ lực nhằm đánh giá những lợi thế, tiềm năng của việc sử dụng vi khuẩn chống lại Vibrio trong nuôi tôm chính là công trình của 2 nhà nghiên cứu được thực hiện tại SK Aquafarms tại Andhra Pradesh.

Địa điểm được chọn để thực hiện nghiên cứu này là SK Aquafarms tại Andhra Pradesh

Thí nghiệm và kết quả

Hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng 10 ngày tuổi (PL10), được cung cấp bởi một trại giống có uy tín. Các PL được thả vào ao sau khi trải qua quá trình thích nghi đầy đủ. PL được thả trong 14 ao, mật độ khoảng 15-24 con/m2, độ mặn trong khoảng 12-18 ppt. Tôm được cho ăn 4 khung giờ mỗi ngày, thời gian nghiên cứu kéo dài 174 ngày.

Nhiệt độ nước, oxy hòa tan và độ pH được đo hàng ngày, trong khi các thông số như nitrat, nitrit và amoniac được kiểm tra hàng tuần. Độ sâu của ao được để ở mức 120-150 cm, tiến hành thay nước 2-3 lần trong suốt quá trình nuôi, tùy theo yêu cầu.

Trong tổng số 14 ao, có 4 ao được nuôi thí nghiệm và 10 ao còn lại nuôi đối chứng. Với 4 ao thí nghiệm, vi khuẩn được trộn vào thức ăn hàng ngày với tỷ lệ 5g/kg thức ăn/bữa mỗi ngày, bắt đầu từ khi tôm đạt 42 ngày nuôi (DOC). Hỗn hợp lợi khuẩn được trộn với thức ăn bằng chất kết dính đã được chứng minh không độc hại. Với 10 ao đối chứng, chế phẩm sinh học chứa hỗn hợp enzyme và hỗn hợp vi sinh vật ổn định sống được sử dụng với tỷ lệ 10g/kg thức ăn/bữa mỗi ngày.

Tiến hành lấy mẫu tôm từ các ao hàng tuần để ước tính hiệu suất tăng trưởng định kỳ và tổng sinh khối. Trọng lượng trung bình của tôm được lấy mẫu trong mỗi ao và lượng thức ăn cung cấp cho tôm được điều chỉnh cho phù hợp.

Kết thúc thí nghiệm, tất cả các ao đều được thu hoạch, tính toán tổng sinh khối của tôm và ước tính tỷ lệ sống cuối cùng. Các thông số khác như mức tăng trưởng trung bình hàng ngày (ADG), sản lượng/ha, năng suất trên một vạn giống và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) đã được tính toán.

Chỉ số kinh tế Thực khuẩn thể Bảng đối chứng
Tổng doanh thu (GR) 624.560 491.238
Tổng chi phí (TC) 461.995 462.605
Tỷ lệ lợi nhuận – chi phí (GR/TC) 1,35 1,06

Bảng phân tích kinh tế về sản lượng dựa trên kết quả đạt được

 

Các kết quả cho thấy rằng, việc sử dụng công thức dựa trên lợi khuẩn chống lại vi khuẩn Vibrio đã giúp tôm tăng khả năng tăng trưởng, tăng tỷ lệ sống, FCR và tăng hiệu suất sản xuất tôm thẻ chân trắng. Tỷ lệ lợi nhuận – chi phí cũng cao hơn đối với các ao sử dụng vi khuẩn để xử lý Vibrio.

Ngoài ra trong nghiên cứu này, một số ao không được xử lý bằng vi khuẩn đã phát hiện ra bệnh phân trắng (WFD), bệnh này không được quan sát tại những ao sử dụng thực khuẩn thể. Một trong những nguyên nhân có thể gây ra WFD là sự kết hợp của EHP (Enterocytozoon hepatopenaei), các tác nhân gây bệnh đường ruột khác như Vibrio và các yếu tố stress . Các nhà nghiên cứu cho rằng, việc kiểm soát hiệu quả vi khuẩn Vibrio gây bệnh trong các ao được xử lý bằng vi khuẩn có thể là lý do không xuất hiện WFD trong các ao này.

“Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chứng minh tiềm năng của các phage đặc hiệu để giảm đáng kể tác động của Vibrio, đồng thời tác động tích cực đến tỷ lệ sống của tôm. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, phương pháp sử dụng lợi khuẩn có thể tiết kiệm hơn so với sử dụng men vi sinh trong nuôi tôm. Do đó, liệu pháp phage có thể là một phương pháp thay thế thực tế để kiểm soát vi khuẩn gây bệnh trong nuôi trồng thủy sản nhờ một số ưu điểm của chúng so với việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh thông thường và các phương pháp khác chống lại vi khuẩn đa kháng thuốc (MDR) gây bệnh”, các tác giả kết luận.

Ái Lam (Lược dịch)

Tin mới nhất

T7,23/11/2024