Nấm mốc thức ăn: Rủi ro và giải pháp

Nấm mốc và độc tố nấm mốc là gì?

Nấm mốc và độc tố nấm mốc được xem là một trong những cản trở rất lớn mà nhiều người chăn nuôi không hề biết đến. Nấm mốc sinh ra trong quá trình bảo quản thức ăn và nguyên liệu thức ăn (đặc biệt là các loại ngũ cốc) và thường để lại những độc tố gây ra rất nhiều tác động tiêu cực. Độc tố nấm mốc có thể là tác nhân gây ung thư ở người, rối loạn hormone, rối loạn tiêu hoá và trao đổi chất ở vật nuôi… Đối với tôm, các độc tố nấm mốc có thể là tiền nguyên nhân gây ra các triệu chứng suy gan, tuỵ, phân trắng… dẫn đến tôm chậm lớn, giảm sức đề kháng và tỉ lệ chết cao. Có nhiều loại độc tố nấm mốc khác nhau và thường được chia làm 5 nhóm như sau: aflatoxin, ochratoxin, fumonisin, trichothecene (deoxynivalenol) và zearalenone. Trong đó, aflatoxin được xem là nhóm độc tố nấm mốc phổ biến và nguy hiểm nhất.

Độc tố nấm mốc được coi là sát thủ thầm lặng cho tôm, cá

 

 

Các rủi ro do nấm mốc

Rủi ro do độc tố nấm mốc là vấn đề phổ biến và nghiêm trọng hơn suy nghĩ chủ quan của người nuôi. Thực tế, nhiều loại nấm mốc có thể phát sinh ngay trên đồng ruộng trước khi được thu hoạch. Quá trình bảo quản nguyên liệu thức ăn kéo dài nhiều tháng trước khi được chế biến thành thức ăn cho tôm. Vì thế, sự tồn tại của nấm mốc và các độc tố do nấm mốc trong thức ăn là điều khó tránh khỏi.

Ở châu Á và đặc biệt ở các nước Đông Nam Á có khí hậu nóng ẩm là các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của độc tố nấm mốc. Các nghiên cứu khoa học trên thế giới đều chỉ ra rằng độc tố nấm mốc hiện diện trong thức ăn chăn nuôi có thể lên tới trên 96%. Nghiên cứu gần đây của Christian và cs (2019) phát hiện tất cả các mẫu bã rượu khô (DDGS) và 75% ngô Mĩ được kiểm tra có dương tính Deoxynivalenol, mức độ nhiễm trung bình là 2681 ppb. Ngoài ra, Fumonisins và Zearalenone cũng thường xuyên được phát hiện với tần suất tương ứng ở mức 88% và 71%. Độc tố Deoxynivalenol có trong hầu hết thức ăn cho tôm với mức trung bình trung bình là 882 μg/kg thức ăn, còn mức cao nhất là 2.287 μg/kg.

Đáng lưu ý, khoảng 88% các mẫu thức ăn có sự xuất hiện của nhiều hơn một loại độc tố nấm mốc. Khi đó, độc tính của chúng sẽ cộng hưởng với nhau và gây nên những tổn thương nặng nề hơn nhiều những tác động đơn lẻ. Dù vậy, phân tích các nguy cơ, tác hại và tổn thương của độc tố nấm mốc đến vật nuôi là rất khó khăn và tốn kém. Thông thường người ta chỉ phân tích các độc chất do nấm mốc sinh ra trên thức ăn, phân tích các mẫu mô cơ, nội tạng của động vật (gan, thận,…) và từ đó suy đoán về tác động của các độc tố nấm mốc. Vì thế các kết quả phân tích theo hướng không toàn diện, đầy đủ và phù hợp. Nhiều nhà dinh dưỡng học cho rằng, các hiểu biết của con người về tác hại của độc tố nấm mốc trong thức ăn đến vật nuôi được ví như phần nổi của tảng băng chìm mà thôi.

 

Các giải pháp hạn chế độc tố nấm mốc

Độc tố nấm mốc được coi là sát thủ thầm lặng cho tôm cá vì bằng mắt thường chúng ta không thể hoặc rất khó có thể nhận thấy sự tồn tại của nấm mốc trong thức ăn. Việc phòng tránh nấm mốc và các độc tố do nấm mốc là công việc không hề đơn giản. Nhiều nguyên liệu thức ăn nhiễm nấm mốc ngay từ khi còn chưa được thu hoạch. Vì thế, lựa chọn cẩn thận các nguyên liệu thô, bảo quản đúng cách có thể ngăn chặn sự phát triển của nấm mốc. Trong chế biến, để hạn chế tác hại của nấm mốc, chiếu các tia UV, X cũng có thể giảm một phần các độc tố nấm mốc.

Ngoài ra, sử dụng một số chất bảo quản như ethoxyquin được bổ sung vào thức ăn nhằm ngăn chặn nấm mốc phát triển. Bên cạnh đó, một số loại nấm mốc đối kháng cũng có thể được bổ sung vào trong thức ăn để ngăn ngừa các sự sinh sôi của nấm độc. Đặc biệt, những khoáng sét có khả năng hấp phụ bề mặt cao khi bổ sung vào thức ăn có thể bắt chặt và cô lập các độc tố nấm mốc, ngăn cản chúng tiếp xúc với cơ thể động vật, từ đó làm giảm tác hại của các độc tố có trong thức ăn.

Gần đây, công ty Innovad và các nhà khoa học đã công bố những phát minh liên quan đến lĩnh vực này. Người ta đã tìm ra phương pháp mới để đánh giá chính xác sự tồn tại của các độc tố nấm mốc và các chất chuyển hoá của chúng ở trong dịch của cơ thể (máu, sữa,…). Bằng công nghệ mới này, chỉ với 1 giọt máu của vật nuôi, con người có thể phát hiện ra 36 loại mycotoxin khác nhau. Tuy nhiên, để có thể phân tích các mẫu máu của động vật thuỷ sản các phương pháp phân tích này vẫn cần phải hiệu chỉnh và hoàn thiện thêm.

Dù vậy, công ty Innovad cũng cho ra đời sản phẩm xử lý độc tố nấm mốc thế hệ mới có tên gọi “Escent® S” và đang được phân phối độc quyền tại bởi Công ty cổ phần thú y Megavet Việt Nam. Bằng sự kết hợp hoàn hảo giữa các khoáng sét, tinh dầu thiết yếu, nấm men và vách tế bào nấm men, sản phẩm đã được chứng minh có những tính năng vượt trội như:

• Bất hoạt nhiều loại độc tố có cực và không cực ở các pH khác nhau nhờ khoáng sét Sepiolite và Bentonite-montmorilonite.

• Tăng cường giải độc, bảo vệ gan tuỵ khỏi các tác động tiêu cực của độc tố nấm mốc.

• Chống ôxy hoá, giảm stress (với polyphenol và bioflavonoid).

• Tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên nhờ các tế bào nấm men bất hoạt Sacchararomyces cerevisiae.

• Tăng cường chức năng trao đổi chất, hạn chế các vấn đề tiêu hoá do độc tố nấm mốc.

Hình 1: Khả năng hấp phụ độc tố nấm mốc của Escent® S

 

Các thử nghiệm cho thấy, Escent® S có khả năng bất hoạt, giảm nhiễm toàn bộ với 5 nhóm độc tố nấm mốc khi được bổ sung với hàm lượng 1% vào thức ăn. Khi sử dụng cho tôm có thể cho ăn với hàm lượng từ 1 đến 3 g/kg thức ăn hoặc 1kg cho 25 – 30 tấn thể trọng. Các kết quả theo dõi thực tế cho thấy, tôm khi được bổ sung thường xuyên có gan, tụy khỏe, lớn nhanh (Hình 1). Đặc biệt khi sử dụng kết hợp với thảo dược có thể phòng khá tốt các bệnh hoại tử gan tuỵ, chết sớm và EHP.

TS. Nguyễn Ngọc Tuấn

Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Tin mới nhất

T5,02/01/2025