Khả năng hấp thụ protein mới trong thức ăn của tôm thẻ chân trắng

[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Nghiên cứu đánh giá khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) đối với sáu nguồn protein mới từ các protein đơn bào, côn trùng và thực vật.

Protein đơn bào có chỉ số tiêu hóa biểu kiến ​​cao nhất, sau đó là protein côn trùng và thực vật.

Để đánh giá chất lượng của một nguồn protein mới thì hệ số tiêu hóa biểu kiến (ADC) là một chỉ số quan trọng về khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng ở động vật. Tỷ lệ tiêu hóa cao không chỉ làm giảm hệ số thức ăn mà còn giúp giảm các tác động xấu đến môi trường.

Trong nghiên cứu này, khả năng tiêu hóa biểu kiến ​​của sáu nguồn protein mới được đánh giá cho chế độ ăn của tôm thẻ chân trắng. Những nguồn này bao gồm bột ấu trùng ruồi lính đen (Hermetia illucens) (BSFLM); bột vi tảo lục (Chlorella vulgaris) (CM); cô đặc protein từ hạt bông (CPC); sâu bột (Tenebrio molitor) (TM); vi khuẩn Clostridium autoethanogenum (CAP); và methanotroph (Methylococcus capsulatus – vi khuẩn này chuyển hóa khí metan thành nguồn carbon và năng lượng) bột vi khuẩn (BPM).

Thiết lập nghiên cứu

Nghiên cứu này ước tính hệ số tiêu hóa biểu kiến ​​(ADC) của sáu nguồn protein mới được đề cập ở trên trong chế độ ăn thử nghiệm được xây dựng cho tôm thẻ chân trắng. Chế độ ăn đối chứng (CD) bao gồm 448,8 g/kg protein thô và 71,8 g/kg lipid thô. Sáu chế độ ăn thử nghiệm chứa 70% CD và 30% thành phần thử nghiệm.

Tổng 630 con tôm khỏe mạnh và có kích thước đồng đều được chia ngẫu nhiên vào các nhóm, mỗi nhóm 30 con với 3 lần lặp lại và được cho ăn 3 lần/ngày. Sau khi tôm thích nghi trong một tuần, phân của chúng được thu thập hai giờ sau khi cho ăn buổi sáng cho đến khi có đủ mẫu phân tích để tính toán hệ số tiêu hóa biểu kiến. Hệ số tiêu hóa biểu kiến ​​đối với vật chất khô của khẩu phần ăn (ADCD) và các thành phần (ADCI), hệ số tiêu hóa biểu kiến ​​đối với protein thô (ADCPro), lipid thô (ADCL) và photpho (ADCP) của các thành phần thử nghiệm.

Kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tôm có các giá trị khác nhau đối với hệ số tiêu hóa biểu kiến với vật chất khô (ADCD) và đối với hệ số tiêu hóa của các thành phần (ADCI) khi được cho ăn các chế độ ăn thử nghiệm khác nhau.

Không có sự khác biệt đáng kể về trọng lượng cuối cùng (FBW), tốc độ tăng trọng (WGR) và tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR) của tôm được cho ăn các chế độ ăn đối chứng (CD), bột vi tảo lục (CM), cô đặc protein từ hạt bông (CPC) và vi khuẩn Clostridium autoethanogenum (CAP). Nhưng FBW, WGR và SGR của tôm ăn chế độ ăn bột ấu trùng ruồi lính đen (BSFLM), sâu bột (TM) và metanotroph (BPM) giảm đáng kể so với tôm ăn chế độ ăn đối chứng.

Ngoài ra, không có sự khác biệt về tỷ lệ sống giữa tôm được cho ăn các chế độ ăn khác nhau. Hiệu quả sử dụng thức ăn (FE; tăng trọng lượng cơ thể trên mỗi đơn vị thức ăn tiêu thụ) của tôm ăn chế độ ăn bột ấu trùng ruồi lính đen (BSFLM) cao hơn đáng kể so với chế độ ăn đối chứng. Không có sự khác biệt về hiện quả sử dụng thức ăn giữa những con tôm được cho ăn chế độ bột vi tảo lục (CM), cô đặc protein từ hạt bông (CPC), sâu bột (TM), vi khuẩn Clostridium autoethanogenum (CAP) và metanotroph (BPM) so với tôm được cho ăn chế độ ăn đối chứng (CD).

Đối với các nguồn protein côn trùng, tôm được nuôi bằng chế độ ăn bột ấu trùng ruồi lính đen (BSFLM) và sâu bột (TM) cho thấy hệ số tiêu hóa biểu kiến với vật chất khô thấp hơn, cũng như hệ số tiêu hóa đối với protein thô (ADCPro) và lipid (ADCL) so với chế độ ăn đối chứng. Ngoài ra, ADCPro và ADCL của bột ấu trùng ruồi lính đen (BSFLM) cao hơn đáng kể so với sâu bột (TM). Đặc tính tiêu hóa của tôm ăn protein từ côn trùng chịu ảnh hưởng mạnh bởi dinh dưỡng thành phần. Thông thường, protein thô, lipid thô, chiết xuất không chứa nitơ và hàm lượng tro của protein từ côn trùng thay đổi theo loài và giai đoạn sinh trưởng. Nguồn protein từ côn trùng có tỷ lệ tiêu hóa axit amin thấp nhất so với các nguồn protein khác trong nghiên cứu.

Protein đơn bào (SCP) là sinh khối thu được từ tế bào chất của tảo, nấm men, vi khuẩn và có đặc tính dinh dưỡng và khả năng sản xuất cao trong lò phản ứng sinh học. Kết quả xác định hệ số tiêu hóa biểu kiến ​​của bột vi tảo lục (CM), metanotroph (BPM) và vi khuẩn Clostridium autoethanogenum (CAP) ở tôm thẻ chân trắng cho thấy rằng hầu hết các chỉ số tiêu hóa biểu kiến ​​trong bột vi tảo lục thấp hơn đáng kể so với các chỉ số trong chế độ ăn đối chứng, nhưng hệ số tiêu hóa biểu kiến ​​đối với protein thô (ADCP) của cả ba protein đơn bào cao hơn đáng kể so với đối chứng. Các nghiên cứu trước đây cho thấy ADCP tăng đáng kể cùng với sự gia tăng protein từ vi khuẩn hoặc bột vi tảo, cho thấy hàm lượng photpho cao hơn trong protein đơn bào.

Cả vi khuẩn Clostridium autoethanogenum (CAP) và metanotroph (BPM) đều được sản xuất từ ​​quá trình lên men của vi khuẩn và đã được ứng dụng nhiều trong ngành thức ăn thủy sản. Trong nghiên cứu hiện tại, tôm cho thấy khả năng tiêu hóa cao nhất đối với CAP. Kích thước và sự phân chia thành tế bào của protein đơn bào có thể là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến ứng dụng của nó trong thức ăn thủy sản và cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn.

Bột hạt bông (CPC) là nguồn protein rẻ tiền và có tính ứng dụng cao trong thức ăn nuôi tôm. Thông thường, thành tế bào của protein thực vật rất giàu chất xơ nên tôm khó tiêu hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tôm được cho ăn chế độ ăn CPC cho thấy hệ số tiêu hóa biểu kiến ​​thấp hơn ở tất cả các chỉ số so với tôm được cho ăn đối chứng. Tiền xử lý bột hạt bông và các protein thực vật khác bằng enzyme có thể làm giảm hiệu quả hàm lượng phytate (dạng dự trữ photpho chính trong thực vật) và do đó làm tăng khả năng cung cấp photpho và các vi chất dinh dưỡng khác. Nhìn chung, tôm thẻ chân trắng cho thấy khả năng tiêu hóa CPC đầy đủ trong khẩu phần nhưng khi sử dụng CPC để thay thế bột cá trong thức ăn, cần bổ sung vào công thức một nguồn photpho thích hợp.

Quan điểm

Khả năng tiêu hóa biểu kiến ​​của sáu nguồn protein mới được đánh giá ở tôm thẻ chân trắng (L. vannamei). Kết quả cho thấy tôm có khả năng tiêu hóa biểu kiến ​​cao nhất đối với protein đơn bào (CAP, BPM và CM), tiếp theo là protein côn trùng (BSF và TM), hệ số tiêu hóa biểu kiến ​​của tôm đối với chế độ ăn CPC thấp hơn so với các thành phần được thử nghiệm khác. Sáu nguồn protein mới cho thấy các đặc tính tiêu hóa tốt hơn và có thể là những lựa chọn tiềm năng thay thế bột cá.

Thu Hiền (Biên dịch)