Huyền Rơm: Bông hồng trẻ đam mê nghiên cứu vi sinh thủy sản

[Người Nuôi Tôm] – ThS. Trần Thu Huyền, hay còn được biết đến với cái tên thân mật “Huyền rơm”, là một gương mặt quen thuộc trong cộng đồng nuôi tôm, sở hữu lượng người theo dõi “khủng” trên mạng xã hội thông qua những chia sẻ chuyên sâu về lĩnh vực vi sinh trong nuôi tôm. Bằng những chia sẻ sâu sắc và đầy tính chuyên môn, chị đã chinh phục được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, chuyên gia doanh nghiệp và đông đảo bà con nuôi tôm. Tạp chí Người Nuôi Tôm đã có dịp trò chuyện cùng chị, để cùng nhau khám phá sâu hơn về những ứng dụng kỳ diệu của vi sinh vật trong nuôi tôm.

 

NNT: Chị có thể chia sẻ quan điểm của mình về tình hình hiện tại của ngành tôm Việt Nam? Những cơ hội và thách thức nào mà ngành đang phải đối mặt trong bối cảnh hiện nay?

Ngành nuôi tôm Việt Nam đang trải qua thời điểm khó khăn, khi đi đến tận nơi và tiếp xúc với người nuôi tôm, tôi thấy bà con để ao trống rất nhiều. Các khu nuôi tôm lớn lên đến cả chục hecta cũng chỉ còn nuôi một nửa hoặc bỏ hoang. Một số bệnh trên tôm đến thời điểm này chưa có thuốc đặc trị nào rõ rệt, vật giá đầu tư cao trong khi kỹ thuật người nuôi còn hạn chế.

Do nhận thức về nuôi tôm ngày càng thay đổi, nên cũng vẫn còn rất nhiều cơ hội lớn cho việc xuất khẩu tôm sạch cho Việt Nam. Với những hiệp định thương mại tự do giúp giảm thuế xuất khẩu, giúp tôm Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Đồng thời, xu hướng tiêu dùng thực phẩm lành mạnh, giàu protein khiến tôm trở thành sản phẩm được ưa chuộng. 

Bên cạnh những ao tôm bỏ trống, hiện nay vẫn có các mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ 4.0, giúp tăng năng suất và giảm thiểu rủi ro, cùng với các mô hình nuôi tôm sinh thái và tôm – lúa, góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao giá trị sản phẩm. Dù đối mặt với nhiều thách thức, vẫn còn không ít thuận lợi trong bối cảnh nuôi tôm hiện nay.

 

NNT: Theo chị, những yếu tố nào đang ảnh hưởng lớn nhất đến tỷ lệ thành công của các mô hình nuôi tôm hiện nay, người nuôi cần có những điều chỉnh nào?

Theo quan điểm của tôi, thành công của ngành nuôi tôm hiện nay phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó một yếu tố quan trọng là hệ thống quản lý môi trường còn hạn chế. Điều này dẫn đến tình trạng lây nhiễm chéo trong hệ thống nuôi trồng mà không có biện pháp xử lý hiệu quả. Các ao bệnh xả trực tiếp ra môi trường dẫn đến cả một vùng nhiễm bệnh, đôi khi là vật trung gian mang cả đi qua các vùng khác gây ra tỷ lệ nhiễm bệnh cao như hiện nay.

Để điều chỉnh và phát triển nghề nuôi tôm, theo tôi, người nuôi cần nâng cao tinh thần học hỏi và cập nhật kiến thức về nuôi tôm bền vững. Đồng thời, họ cũng nên tự tin hơn vào khả năng của bản thân và cảnh giác trước những chiêu trò lừa đảo liên quan đến sản phẩm. Bà con cần thật sự cân nhắc và lựa chọn những sản phẩm được cấp phép lưu hành với chất lượng đảm bảo, để giảm chi phí nuôi và nâng cao hiệu quả sản xuất.

 

NNT: Chị có thể chia sẻ về quy trình ứng dụng vi sinh từ rơm trong nuôi tôm mà chị đang triển khai? Thực tế triển khai, quy trình này đã mang lại những kết quả như thế nào?

Nói về việc ứng dụng vi sinh và rơm trong nuôi tôm, được gọi tắt là Quy trình rơm Viethand, đây là một quy trình được xây dựng nhằm khắc phục những nhược điểm của các phương pháp trước đây mà Viethand đã áp dụng. Quy trình này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn cân bằng hệ sinh thái, tạo ra một môi trường nuôi tôm bền vững. Trong suốt 3 năm triển khai, quy trình này đã đạt được thành công đáng kể trên các hệ thống ao đất, ao bạt và tôm lúa, đánh dấu bước đầu thành công của quy trình này.

Kết quả thực tế khi triển khai được thống kê từ khách hàng cho thấy tỷ lệ sống của tôm tăng lên 10 – 15% so với mô hình không dùng vi sinh từ rơm. Chất lượng nước ổn định, ít thay nước, tiết kiệm chi phí xử lý ao. Tỷ lệ dịch bệnh ở tôm nuôi đã giảm đáng kể, đặc biệt là các bệnh liên quan đến môi trường ao nuôi. Hiệu quả kinh tế cũng được nâng cao nhờ vào việc giảm chi phí sản xuất và tăng năng suất. Đây là một hướng đi tiềm năng mà tôi luôn hướng đến cho người nuôi, để phát triển nghề nuôi tôm bền vững trong tương lai!

 

NNT: Theo chị, những tác động cụ thể nào mà quy trình này mang lại cho năng suất, chất lượng tôm và môi trường ao nuôi?

Những tác động rõ rệt nhất đến năng suất và chất lượng tôm mà quy trình này mang lại bao gồm việc hạn chế dư lượng kháng sinh, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu và đảm bảo tôm luôn khỏe mạnh để có thể vận chuyển đến những vùng xa trong cả nước.

Đối với môi trường ao nuôi, các sản phẩm từ quy trình sử dụng rơm sẽ giảm thiểu sự phụ thuộc vào hóa chất và kháng sinh, góp phần bảo vệ hệ sinh thái và giảm thiểu ô nhiễm từ nguồn nước thải ra môi trường xung quanh.

 

NNT: Chị có thể cho biết sự khác biệt về chi phí và lợi ích mà quy trình này mang lại so với các mô hình nuôi tôm khác hiện nay là gì không?

Việc áp dụng Quy trình rơm Viethand trong nuôi tôm mà tôi đang theo đuổi không chỉ giúp nâng cao năng suất và chất lượng tôm mà còn đảm bảo chi phí đầu tư ở mức thấp. Đây chính là điều kiện tiên quyết cho mô hình nuôi tôm bằng vi sinh rơm. Tôi hy vọng rằng tất cả người nuôi tôm sẽ dần hiểu rõ nguyên lý sản xuất các sản phẩm dùng trong nuôi tôm, biết cách sử dụng và có khả năng tự sản xuất mà vẫn đảm bảo an toàn. Đây là một điểm khác biệt đáng kể so với các quy trình khác, tuy nhiên, điều này đòi hỏi thời gian và sự kiên định từ phía người nuôi tôm.

 

NNT: Chị đánh giá như thế nào về tiềm năng phát triển của phương pháp ứng dụng vi sinh từ rơm trong nuôi tôm trong tương lai?

Việc ứng dụng vi sinh cám rơm trong nuôi tôm là một giải pháp xanh, hiệu quả và phù hợp với mô hình nuôi tôm hiện đại, bền vững. Một trong những yếu tố thành công của quy trình này là khả năng người nuôi tự hỗ trợ, giúp đỡ và hướng dẫn lẫn nhau, bởi vì phương pháp này không quá phức tạp và không yêu cầu công nghệ máy móc hiện đại. Những phế phụ phẩm đều có thể được sử dụng trong Quy trình rơm Viethand, vì vậy, nếu chúng ta hướng đến việc nuôi tôm sạch và bền vững, tôi tin rằng quy trình này sẽ ngày càng được biết đến rộng rãi hơn trong tương lai.

Hơn nữa, trong bối cảnh ngành tôm đang phải đối mặt với biến đổi khí hậu, dịch bệnh và những yêu cầu khắt khe từ thị trường xuất khẩu, phương pháp này vẫn có tiềm năng phát triển rất lớn.

 

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của chị!

Phạm Huệ (Thực hiện)

“Điều kiện áp dụng từ các nước nuôi tôm hiệu quả hoàn toàn có thể được áp dụng tại Việt Nam, tuy nhiên, điều này cần sự quan tâm và hỗ trợ từ các cơ quan ban ngành cũng như sự cố gắng từ chính người nuôi. “Vi sinh vật không phải là một phép màu” nhưng việc sử dụng hiệu quả các chế phẩm sinh học có thể giúp tăng đáng kể chất lượng và sản lượng trong chăn nuôi. Tôi tin rằng, sau khi được hướng dẫn về quy trình mới này, bà con sẽ có cái nhìn hoàn toàn mới về vai trò của vi sinh vật trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong nuôi tôm. “

ThS. Trần Thu Huyền

Tin mới nhất

T2,17/03/2025