Với ngành tôm, quý II, quý III, là 2 quý chủ lực, quyết định sản lượng trong kế hoạch cả năm, quyết định hiệu quả sản xuất, cân đối các khoản chi phí đầu vào, làm cơ sở hạch toán lợi nhuận kinh doanh, sản xuất. Như những ngành khác, ngành tôm vừa trải qua 1 năm ảm đạm do dịch bệnh covid 19 tác động, thị trường đang từng bước gượng dậy, sau những thiệt hại nặng nề do dich bệnh gây ra. Với người nuôi tôm, hơn bao giờ hết, bước vào vụ nuôi mới, cần một vụ nuôi thành công, để trang trải, khoả lấp, tạo động lực, xây dựng niềm tin, duy trì, phát triển, mô hình nuôi tôm của mình.
Khi đề cập đến các yếu tố quan trọng, ảnh hưởng, tác động, quyết định thành công của mô hình nuôi tôm hiện nay như con giống; môi trường; thức ăn; kỹ thuật hay nhất giống, nhì môi, tam mồi, tứ kỹ, bà con hay truyền miệng; tự nhắc nhau trong thực tế nuôi tôm là vấn đề muôn thuở của nghề nuôi tôm. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến vấn đề chuẩn bị ao, hồ trong nuôi tôm thẻ chân trắng. Nội dung đề cập được xem là không mới, nhưng trên thực tế sản xuất tôm hiện nay, vấn đề này luôn đóng vai trò then chốt, quyết định thành công của mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng.
Những tồn tại, hạn chế, vẫn hiện hữu, gây khó khăn, thiệt hại cho người nuôi tôm. Nuôi tôm mô hình ao đất, ao đất lót bạt bờ, ao đất lót bạt bờ đáy lưới, ao lót bạt bờ bạt đáy, ao công nghệ cao. Người nuôi đánh giá thấp việc dùng lưới hay bạt đáy ao, ngăn chặn phèn rò rỉ, hạn chế tôm hoạt động, quậy đáy ao làm đục nước. Hệ thống quạt nước, oxy đáy bố trí chưa tương xứng diện tích thả nuôi, mật độ thả nuôi, công nghệ nuôi,… nên khi khai thác sẽ kém hiệu quả. Hiện nay, việc xử lý bùn đáy, nguồn nước của vụ nuôi trước chưa được thực hiện triệt để. Việc đầu tư hệ thống các ao lắng lọc, ao xử lý có hệ thống zic zac bằng lưới, ao sẵn sàng, ao nuôi, ao xử lý thải…người nuôi tôm dù muốn, nhưng lệ thuộc vào quỹ đất, khả năng tài chính, mô hình đang ứng dụng,… Lượng bùn tồn của vụ nuôi trước không được loại bỏ triệt để, ẩn chứa nhiều mầm bệnh, khí độc, là nguy cơ tác động trực tiếp đến tỷ lệ sống bầy tôm postlarvae thả nuôi, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của tôm trong quá trình nuôi.
Thông qua đánh giá BOD (nhu cầu oxy sinh hoá) trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng, cho thấy, khi mật độ nuôi càng tăng, tỷ lệ sống tôm nuôi giảm, lượng thức ăn dư thừa tăng, lượng phân thải hàng ngày tăng, lượng dịch thải hàng ngày tăng. BOD do thức ăn dư, do phân, do dịch, và BOD tổng, đều tăng theo thời gian nuôi và tăng mạnh khi mật độ thả nuôi tăng. Khi BOD tổng tăng cao, chứng tỏ ô nhiễm hữu cơ tăng, nhu cầu oxy sinh học, đại diện cho lượng oxy tiêu thụ của vi sinh vật, khi chúng phân huỷ chất hữu cơ, trong điều kiện hiếu khí cũng tăng cao. Khi khối lượng tôm thu hoạch tăng cao, BOD sinh ra tỷ lệ thuận, theo sự tăng của trọng lượng. Mặt khác, tái sử dụng nước của vụ nuôi trước, nếu không được xử lý triệt để, khí độc trong nước sẽ rất cao, đặc biệt NO2, H2S, NH3, người nuôi phải đầu tư thêm tài chính, mua thuốc, hoá chất,… gây tốn kém trong chi phí sản xuất, liên tục gây bất ổn về môi trường trong quá trình nuôi, gây stress trực tiếp cho tôm trong ao.
Đối với những ao mới làm, việc xây dựng ao nuôi quá lớn ≥ 1.800 m2, khó chăm sóc, quản lý, môi trường luôn biến động. Quy trình lấy nước, các bước xử lý, sử dụng hoá chất các loại, tuần tự hoá chất và liều lượng mỗi loại hoá chất,… còn nhiều bất cập. Với các vấn đề thảo luận trên, khi vận hành mô hình nuôi, theo sự phát triển của tôm trong ao, theo nhu cầu thức ăn tăng cao, môi trường nuôi bắt đầu bất ổn, khí độc tăng cao, chất thải tăng cao, kéo theo phân huỷ hữu cơ tần suất tăng cao, sinh nhiều khí độc, làm BOD tăng. Các giải pháp trú trọng vào khâu chuẩn bị ao, hồ nuôi, đúng yêu cầu kỹ thuật, giảm thiểu rủi ro, tăng cơ hội thành công cho các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng.
Bà con nên thiết kế ao nuôi có diện tích ≤ 1.500 m2, thuận lợi cho việc chăm sóc, quản lý, vận hành. Trang bị đầy đủ các ao đã đề cập trên. Việc đầu tư thêm lưới đáy hay lót bạt đáy giúp ngăn chặn phèn rò rỉ, ngăn tôm quậy đáy, làm đục nước, giảm oxy trong nước. Lót lưới hay bạt, giúp người nuôi loại bỏ chất thải, chất hữu cơ, ra khỏi ao nuôi dễ dàng. Nguồn nước lấy từ kênh cấp, qua túi lọc dẫn vào ao lắng thô (ao này có thể thả cá rô phi) để lắng 1 đến 2 ngày, bà con cần đảm bảo thời gian lắng này. Sau khi lắng, nước được bơm sang ao xử lý hình zic zac. Hệ thống zic zac thiết kế: ngang: 3 – 5 m, dài: ≥ 150 m, tấm ngăn giữa các ô zic zac thiết kế bằng lưới lan đặt ngang, khoảng cách giữa các tấm lưới 5 – 10 m, đập tràn bố trí cách nhau 30 – 40 m, xen kẽ các tấm ngăn bằng lưới lan. Tại đường zic zac đầu vào, nước được xử lý bằng PAC (Poly Aluminum Chloride), là một hợp chất lắng tụ gốc nhôm, nồng độ 5 g/m3 nước, hoá chất xử lý tiếp theo là thuốc tím (KMnO4) nồng độ 4 – 5 g/m3 nước. Nếu nguồn nước cấp có độ đục cao, có thể dùng thuốc tím nồng độ 20 – 25 g/m3.
Tiếp đó, trong hệ thống zic zac, nước được xử lý bằng Chlorine Ca(ClO)2, nồng độ 25 – 30 g/m3 nước. Ngoài Chlorine, bà con có thể dùng BKC, TCCA, VIKON…Chlorine hòa tan kỹ trong xô chứa nước, tạt đều quanh ao, đảo nước bằng máy quạt 30 phút đến 1 giờ. Đánh Chlorine chiều mát hoặc tối. Sau khi đánh Chlorine, cần tắt xục khí 24 giờ. Tại đường zic zac đầu ra, nước được bơm từ ao xử lý sang ao sẵn sàng. Tại đây, nước được bổ sung khoáng chất, tăng kiềm, điều chỉnh pH, gây nuôi vi sinh. Khi nước ở ao sẵn sàng đạt tiêu chuẩn, tiến hành cấp vào ao ương, ao nuôi. Kiểm tra hàng ngày các chỉ tiêu như oxy hòa tan (DO), pH, độ mặn, độ trong, nhiệt độ, độ kiềm, NH3, H2S, bảo đảm giá trị của các thông số, đạt yêu cầu tiêu chuẩn nuôi tôm.
Ao ương, bà con nện thiết kế diện tích khoảng 200 – 300 m3, nên làm ao tròn nổi, nếu ao vuông nổi, cần bo tròn góc. Ao được lót bạt HDPE toàn bộ, có mái che, có hố si phon ở giữa ao để gom chất thải ra ao chứa bùn. Ao ương bố trí 1 máy sục khí 3 KV/giờ, với 20 sủi kèm theo. Ao nuôi diện tích 1.000 – 1.500 m2, ao hình vuông, bo tròn góc, nhằm tạo dòng chảy tốt, gom chất thải triệt để, cung cấp oxy đầy đủ cho ao, tốt nhất bà con nên thiết kế ao hình tròn. Ao nuôi có hố si phon ở giữa, gom tụ chất thải, định kỳ hút ra ngoài. Nếu có khả năng tài chính, bà con nên lót bạt bờ, bạt đáy, nhằm chủ động kiểm soát chất lượng nước, kiểm soát khí độc. Các ao nuôi thiết kế với độ sâu 1,2 – 1,5 m, phù hợp tập tính hoạt động rộng khắp tầng nước của tôm thẻ chân trắng. Ao nuôi bố trí 1 – 2 máy sục khí, công suất 2,5 – 3,5 kW, sử dụng dàn quạt có 12 – 14 cánh, với 4 dàn quạt nước. Kết hợp cánh quạt nhựa và cánh quạt lông nhím, vòng tua cánh quạt nhựa lớn hơn 120 vòng/phút. Bố trí thêm 1 – 2 máy sủi công suất 2,5 – 3,5 kW; dùng 120 – 200 cục sủi rải đều khắp ao. Nếu mật độ nuôi ≥ 500 post/m2, số lượng sủi trung bình 120 – 200 cục sủi/ 1.000 m2.
Gây nuôi vi sinh có lợi, tạo Floc, nguồn thức ăn tự nhiên trong ao ương, ao nuôi. Bà con sử dụng các nguyên liệu gồm 180 lít nước ngọt sạch, cám gạo: 2 kg, 2 kg thức ăn tôm 43% đạm, 5 kg rỉ mật đường, 1 kg muối ăn, 500g chế phẩm sinh học có thành phần gồm Bacillus subtilis 108 CFU/kg; Bacillus lichenniformis 108 CFU/kg; Bacillus megaterium 108 CFU/kg; Bacillus polymyxa 108 CFU/kg. Sục khí thùng ủ vi sinh liên tục 1-2 ngày, sau đó tạt đều xuống ao ương, ao nuôi. Bổ sung vi sinh đã qua sục khí liên tục trong 5 ngày đầu, bật quạt nước và sủi oxy liên tục để tạo biofloc.
Công tác chuẩn bị ao, hồ, rất quan trọng trong nuôi tôm thẻ chân trắng. Ảnh: Tepbac
Công tác chuẩn bị ao, hồ, rất quan trọng trong nuôi tôm thẻ chân trắng. Quá trình chuẩn bị đúng quy trình, từng công đoạn, triệt để, đảm bảo thời gian, nhằm giảm thiểu những rủi ro do môi trường, ảnh hưởng xấu đến nguồn nước nuôi tôm. Ngoài việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất, cơ hội thành công của mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng sẽ tăng lên, nếu các rủi ro phát sinh do công tác chuẩn bị ao hồ được chủ động giảm thiểu. Người nuôi tôm sẽ không bị chi phối bởi các vấn đề trên, tập trung nâng cao tỷ lệ sống tôm nuôi, chủ động phòng bệnh, gia tăng sản lượng, tự tin cải thiện năng suất và trọng lượng tôm nuôi.
Lý Vĩnh Phước
Nguồn: Thuỷ sản Tép Bạc
- chuẩn bị ao hồ nuôi tôm li>
- nuôi tôm thẻ chân trắng li> ul>
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Ngành tôm Ecuador 2025: Thách thức bủa vây
- Xuất khẩu tôm Quý I: Tín hiệu khởi sắc
- Cơ cấu giá thành nuôi tôm nước lợ tại Việt Nam
- TPD: Vụ tôm mới, nỗi lo cũ
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 3/2025
- Nuôi tôm dễ dàng, thành công vững vàng cùng thức ăn đa tầng STP của Japfa Việt Nam
- Hà Tĩnh: Sẵn sàng cho vụ tôm xuân – hè 2025
- MiXscience Asia: Bộ sản phẩm phòng ngừa EHP, EMS, WFS, WSSV, TPD
- Học hỏi công nghệ xử lý nước nuôi trồng thủy sản tiên tiến từ Israel
Tin mới nhất
T6,28/03/2025
- TAURINE: Hỗ trợ giảm thời gian chờ sinh sản của tôm mẹ
- Thực khuẩn thể: Bước tiến mới trong phòng trị bệnh vi khuẩn cho tôm
- Công cụ di động chẩn đoán virus đốm trắng trong 24 giờ
- VHVP-2: Đặc điểm gen trong Vibrio gây bệnh TPD
- Bệnh đốm trắng: Nguyên nhân chính gây giảm năng suất tôm
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Oxy sinh học và oxy hóa học: Sự khác biệt về nhu cầu
- Công nghệ thông minh AIoT: Cơ hội chuyển mình cho ngành thủy sản
- Di truyền tôm thẻ chân trắng: Xu hướng hiện tại và tương lai
- TPD trên tôm: Những hiểu biết trong chẩn đoán và phòng bệnh
- Sản lượng tôm toàn cầu ước đạt 6 triệu tấn vào năm 2025
- Cà Mau giữ vững vị thế xuất khẩu tôm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
- Nuôi tôm nước lợ công nghệ cao, nông dân Bến Tre thu về hơn 6.300 tỷ đồng
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Giá trị xuất khẩu thủy sản khởi sắc những tháng đầu năm
- Tăng cường kiểm soát thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu
- Đề xuất thành lập “nhóm đặc nhiệm” về thương mại nông sản Việt Nam – Singapore
- Hà Nội thúc đẩy phát triển nguồn lợi thủy sản
- Sản lượng thủy sản tháng đầu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Xác nhận thực tế về giải pháp thức ăn mới có lợi cho việc giảm thiểu EHP ở Đông Nam Á
- Huyền Rơm: Bông hồng trẻ đam mê nghiên cứu vi sinh thủy sản
- Kết quả sản xuất tôm nước lợ năm 2024 tại các địa phương
- Grobest: Nâng tầm tôm Việt với di sản 50 năm phát triển bền vững
- 10 vụ tôm liên tiếp thành công cùng mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Grobest
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống