Động lực phát triển đột phá ngành thủy sản

Theo PGS.TS Võ Văn Nha, bộ ba Khoa học công nghệ – Đổi mới sáng tạo – Chuyển đổi số là động lực cốt lõi cho sự phát triển đột phá của ngành.

Nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ mới

Theo PGS.TS Võ Văn Nha, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (gọi tắt Viện III), trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, ngành thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản tiếp tục khẳng định vai trò trong chiến lược phát triển kinh tế biển quốc gia và ngành nông nghiệp bền vững.

Hiện nay khu vực các tỉnh Nam Trung Bộ phát triển thủy sản khá mạnh. Ảnh: KS.

Hiện nay khu vực các tỉnh Nam Trung Bộ phát triển thủy sản khá mạnh. Ảnh: KS.

Tuy nhiên ông Nha cho rằng, ngành nuôi trồng thủy sản đang đối mặt với hàng loạt thách thức như: biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, dịch bệnh thủy sản gia tăng, môi trường nuôi ngày một suy thoái, chi phí sản xuất tăng cao, cùng yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường trong và ngoài nước về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Trong bối cảnh đó, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là công cụ hỗ trợ mà đã trở thành động lực cốt lõi cho sự phát triển đột phá của ngành. Do đó, việc nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, đổi mới sáng tạo và ứng dụng chuyển đổi số vào sản xuất là yêu cầu cấp thiết nhằm gia tăng năng suất, giảm thiểu rủi ro, nâng cao giá trị và bảo đảm phát triển bền vững.

Với vai trò là một trong những đơn vị nghiên cứu đầu ngành tại khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên – vùng có nhiều thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi trồng thủy sản, thời gian qua, Viện III đã sản xuất nhân tạo thành công nhiều giống thủy sản có giá trị kinh tế cao và chuyển giao ứng dụng vào thực tiễn sản xuất ở nhiều địa phương trong cả nước.

Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đã nghiên cứu làm chủ nhiều công nghệ sản xuất giống phục vụ nuôi trồng thủy sản. Ảnh: KS.

Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đã nghiên cứu làm chủ nhiều công nghệ sản xuất giống phục vụ nuôi trồng thủy sản. Ảnh: KS.

Nổi bật trong số đó là các công nghệ sản xuất giống và kỹ thuật nuôi thương phẩm các loài thủy sản như: tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, ốc hương, cá mú trân châu, cá chẽm, cá tầm, cá hồi, cá chình, hàu Thái Bình Dương, hải sâm…

Những quy trình kỹ thuật này không chỉ giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, mà còn thúc đẩy hình thành các vùng nuôi chuyên canh quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, phù hợp với điều kiện sinh thái đặc thù của miền Trung và Tây Nguyên.

Bên cạnh đó, Viện III còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các mô hình nuôi bền vững, mô hình nuôi đa loài, kết hợp xử lý môi trường và quản lý dịch bệnh hiệu quả. Các chương trình tập huấn, đào tạo kỹ thuật viên và chuyển giao công nghệ đã giúp nâng cao năng lực cho hàng ngàn hộ nuôi, doanh nghiệp và hợp tác xã thủy sản.

Cũng theo PGS.TS Võ Văn Nha, tính đến năm 2024, Viện đã xây dựng và chuyển giao thành công trên 40 quy trình công nghệ và mô hình sản xuất cho các địa phương và doanh nghiệp. Trong đó, nổi bật một là quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm tôm sú, tôm thẻ chân trắng đã được ứng dụng tại các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định…với tổng diện tích nuôi trên 12.000 ha, tạo sản lượng bình quân hơn 80.000 tấn/năm, giá trị xuất khẩu ước đạt 700 – 800 triệu USD/năm.

Nuôi tôm hùm lồng ở tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: KS.

Nuôi tôm hùm lồng ở tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: KS.

Hai là, công nghệ nuôi tôm hùm lồng và nuôi ốc hương được áp dụng tại các vùng ven biển Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận với tổng sản lượng 10.000 – 12.000 tấn/năm, giá trị thương mại ước tính 1.200 – 1.500 tỷ đồng/năm

Ba là, kỹ thuật nuôi các loài cá biển và cá nước lạnh có giá trị cao (cá mú trân châu, cá chẽm, cá hồi, cá tầm): Ứng dụng tại các vùng nước lợ, nước mặn (Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận) và nước lạnh (Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon tum) mang lại sản lượng hơn 5.000 tấn/năm, giá trị khoảng 600 – 700 tỷ đồng/năm.

“Nhìn chung, các công nghệ và mô hình do Viện III chuyển giao đã góp phần tạo ra hơn 2,5 triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp trong chuỗi nuôi – chế biến – dịch vụ hậu cần thủy sản ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Đặc biệt trong các lĩnh vực sản xuất giống, kỹ thuật nuôi, thu hoạch, bảo quản và thương mại hóa sản phẩm”, PGS.TS Võ Văn Nha chia sẻ.

Nhiều điểm nghẽn

Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, PGS.TS Võ Văn Nha thẳng thắn nhìn nhận hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tại Viện III vẫn còn một số hạn chế.

Thời gian qua, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã chuyển giao nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản. Ảnh: KS.

Thời gian qua, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã chuyển giao nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản. Ảnh: KS.

Chẳng hạn như nhiều mô hình đã có kết quả nghiên cứu tốt nhưng chưa được nhân rộng ở quy mô công nghiệp. Hoạt động liên kết giữa nghiên cứu – doanh nghiệp – thị trường còn rời rạc; một số kết quả nghiên cứu khi áp dụng ở quy mô lớn chưa được đánh giá đầy đủ hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Trình độ tự động, số hóa trong các công nghệ, sản xuất vẫn ở mức sơ khai, hầu như chưa có nghiên cứu cụ thể nào trong khi nhiều nước trên thế giới đã và đang nghiên cứu, áp dụng vào thực tiễn sản xuất.

Viện III cũng thiếu nhân lực nghiên cứu trong các lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao như: IoT, AI, blockchain trong nuôi trồng thủy sản.

Ngoài ra, nguồn lực tài chính và cơ chế hỗ trợ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ còn hạn chế. Khoảng 70% dự án chuyển giao công nghệ của Viện phụ thuộc vào nguồn ngân sách sự nghiệp khoa học, vốn thường có quy mô nhỏ và thời gian triển khai ngắn hạn, gây khó khăn trong việc nhân rộng mô hình.

Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đang nỗ lực nghiên cứu khoa học để thúc đẩy phát triển nuôi biển. Ảnh: KS.

Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đang nỗ lực nghiên cứu khoa học để thúc đẩy phát triển nuôi biển. Ảnh: KS.

Chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong nuôi trồng thủy sản, khó thu hút sự liên kết giữa doanh nghiệp và đơn vị nghiên cứu. Cơ chế chuyển giao, khai thác và chia sẻ lợi ích tài sản trí tuệ chưa hợp lý, nhà khoa học thường không được hưởng lợi xứng đáng từ kết quả nghiên cứu nên thiếu động lực sáng tạo.

Mặt khác khu vực miền Trung và Tây Nguyên chưa hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong thủy sản một cách bài bản. Điều này dẫn đến việc các kết quả nghiên cứu của Viện khó được thương mại hóa nhanh chóng và hiệu quả.

Nhận thức được vấn đề này, trong những năm gần đây, Viện III đã tổ chức hơn 15 hội thảo kết nối doanh nghiệp – nhà khoa học, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về công nghệ và phối hợp với các tỉnh như: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú Yên, Bình Định, Gia Lai, Lâm Đồng, Bình Thuận, Bến Tre, Bạc Liêu, Trà Vinh, Tây Ninh, Thanh Hoá, để chuyển và ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tế. Những nỗ lực này được kỳ vọng sẽ góp phần khắc phục dần khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên.

Kim Sơ

Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/

Dù những năm qua, Viện cũng đã ứng dụng chuyển đổi số vào nghiên cứu và quản lý như: số hóa dữ liệu môi trường, chương trình quỹ gen, chương trình quan trắc môi trường, số hoá tài liệu…Tuy nhiên, việc số hóa dữ liệu giống, ao nuôi, quy trình kỹ thuật, dịch bệnh còn ở mức khởi đầu. Thiếu nền tảng dữ liệu tập trung, hệ sinh thái số chưa hình thành, khiến quá trình ra quyết định và dự báo còn bị động.

 

Tin mới nhất

T5,05/06/2025