Chiết suất từ chè xanh: Bảo vệ tôm khỏi sự bùng phát của AHPND và WSSV

[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Thảo dược truyền thống được chiết xuất từ cây trà Camellia sinensis (chè xanh), đã được chứng minh là có thể bảo vệ tôm khỏi sự bùng phát của AHPND và WSSV.

Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu xem liệu các catechin sinh học có sẵn được thu hồi từ cây chè xanh có tác dụng phòng tránh những mối nguy hiểm cho tôm nuôi hay không

 

Các thử nghiệm được tiến hành theo yêu cầu của Tiến sĩ Roger Duffield, Giám đốc của Theales Corporation Limited, người đã dành hơn 10 năm để điều tra tác dụng dự phòng của các hợp chất này đối với người và động vật. Gần đây nhất, ông đã thử nghiệm cách bổ sung chúng một cách hiệu quả cho một loạt các loài nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả tôm thẻ chân trắng.

Trước khi thử nghiệm, ông đã phát triển thành công một lớp phủ polyme dược phẩm cải tiến để ngăn chặn sự phân hủy nhanh chóng của catechin trong chất lỏng – đây là một trong những hạn chế chính đối với hiệu quả của chúng như một loại thuốc dự phòng chống lại một loạt các mầm bệnh. Trong quá trình thử nghiệm, các catechin phủ polyme được trộn vào thức ăn thương mại cho tôm, trước khi tôm thử thách với một trong hai mầm bệnh.

Trong hai thử nghiệm thử thách với AHPND, đối với lô tôm thử nghiệm tiến hành cho ăn thức ăn phối trộn tỷ lệ 28 g/kg thức ăn, cho tỷ lệ sống trung bình là 60%. Lô đối chứng có tỷ lệ sống là 5%.

Trong khi đó, trong thử nghiệm thách thức WSSV, mặc dù tất cả tôm bị nhiễm bệnh đều chết, những con được cho ăn chế độ ăn đối chứng đều chết vào cuối ngày thứ nhất, trong khi những con được cho ăn chế độ ăn có chứa catechin phủ polyme sống đến tám ngày sau khi nhiễm virus.

Catechin bọc polyme được trộn vào thức ăn tổng hợp cho tôm tại một số thử nghiệm (Ảnh minh họa)

 

Theo Tiến sĩ Duffield, những kết quả ấn tượng này có thể sẽ được cải thiện sau một số tinh chỉnh – đặc biệt là bằng cách giảm kích thước của các hạt polyme, giúp tôm ăn vào dễ dàng hơn.
Ông giải thích: “Kích thước hạt 250 mg được sử dụng trong những thử nghiệm này quá lớn, vì vậy chúng tôi cần giảm chúng xuống 200 mg hoặc ít hơn. Bên cạnh đó, sẽ tăng nồng độ của các hoạt chất dự phòng. Trong nghiên cứu sâu hơn, liều lượng sẽ là 40 g hoạt chất cho mỗi kg thức ăn cho tôm (tức là tỷ lệ bao gồm 0,2 %). Chúng tôi hy vọng sẽ đạt được kết quả phòng ngừa cao hơn với bệnh AHPND và ít nhất 50% phòng ngừa với bệnh WSSV thông qua kích thước hạt nhỏ hơn và catechin mới được phủ polymer”.

 

Nghiên cứu đằng sau dự án

Lợi ích sức khỏe dự phòng của catechin trong chè xanh đã được ghi nhận rộng rãi về khả năng tiêu diệt các gốc tự do nguy hiểm trong tế bào người và động vật. Tuy nhiên, theo các tài liệu đã xuất bản, tác động của chúng giảm đi rất nhiều do sự phân hủy và chuyển hóa nhanh chóng sau khi chúng được uống qua đường miệng.

Tuy nhiên, nhờ các kỹ thuật phủ polymer sáng tạo, đã được hỗ trợ bởi sự xác nhận của khoa học, thời hạn sử dụng của catechin có thể được kéo dài thêm vài năm và cũng có tác dụng dự phòng được cải thiện trên một loạt loài, bao gồm cả con người, sau khi ăn.

“Các catechin trong chè xanh là chất thu dọn gốc tự do. Thách thức ở đây là làm thế nào để đưa chúng vào máu mà không bị chuyển hóa hoặc thoái hóa. Trong các nghiên cứu lâm sàng với cả người và động vật, catechin dự phòng hoạt động trong hơn 48 giờ”, ông giải thích.

Bằng chứng khoa học độc lập đủ thuyết phục để thu hút sự chú ý của một trong những tổ chức phi chính phủ có uy tín nhất thế giới.

Ông giải thích thêm: “Phương pháp dự phòng hiện đang được Tổ chức Y tế Thế giới, Brazzaville, xác nhận để xác định cách phòng ngừa và quá trình apoptosis chống lại các bệnh lây truyền từ động vật, đặc biệt là Covid-19 và các biến thể của nó”. Tiến sĩ Duffield cũng chỉ ra một nghiên cứu năm 2016 từ Thái Lan đã thiết lập giá trị của catechin trong việc ngăn ngừa bệnh tật ở tôm bị nhiễm WSSV – nghiên cứu mà ông cho rằng đã bị bỏ qua.

 

Bước tiếp theo…

Tiến sĩ Duffield giải thích: “Mục tiêu của chúng tôi bây giờ là lặp lại nghiên cứu trước đây của chúng tôi với tôm, bao gồm những thách thức khi bổ sung các vi khuẩn Gram dương và Gram âm”. Sau thử nghiệm thử thách tiếp theo, việc hoàn thiện nền tảng khoa học sẽ liên quan đến việc điều tra thương mại như một phần của quá trình thương mại hóa.

Trong khi chờ đợi, các nhà nghiên cứu tại Viện Đo lường Quốc gia Nam Phi (NMISA) – thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp Nam Phi – sẽ nghiên cứu sản xuất kích thước hạt dự phòng 20um để nuôi tôm một cách hiệu quả ngay từ những ngày đầu trong chu kỳ nuôi tôm thương phẩm.

Trong tương lai, theo Tiến sĩ Duffield, tiềm năng tăng sản lượng thuốc dự phòng là rất lớn. Ông cho biết thêm: “Tuy nhiên, một yếu tố quan trọng là chi phí của thuốc dự phòng sẽ cần phải phù hợp với chi phí chung trong nuôi tôm hiện tại, đặc biệt là chi phí thức ăn để có thể hỗ trợ người nuôi”.

Hiểu Lam (Biên dịch)

 

 

Tin mới nhất

T5,21/11/2024