[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Hàm lượng axit linolenic (LNA) thích hợp trong thức ăn có thể cải thiện sự phát triển của P. vannamei và tăng cường khả năng miễn dịch không đặc hiệu, hoạt động chống oxy hóa. LNA có thể được sử dụng như một bộ điều biến trao đổi chất tiềm năng để kiểm soát bệnh do EHP gây ra trên tôm thẻ chân trắng.
Chế độ ăn 2,4g LNA/kg có thể cải thiện khả năng tăng trưởng của tôm bị nhiễm EHP
Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) lần đầu tiên được phát hiện từ tôm sú (Penaeus monodon) (Tourtip & cs., 2009), và sau đó cũng được quan sát thấy ở tôm thẻ chân trắng (Tangprasittipap & cs., 2013). Cho đến nay, nghiên cứu về EHP tập trung vào việc phát triển các thử nghiệm phát hiện mới, nghiên cứu bộ gen, mô bệnh học và cơ chế lây truyền (Wiredu Boakye & cs., 2017; Karthikeyan & Sudhakaran, 2019). Kết quả trước đây cho thấy 25 chất chuyển hóa tăng đáng kể ở tôm do nhiễm EHP, trong khi 24 chất chuyển hóa khác bao gồm axit linolenic (LNA), myo-inositol và N-acetyl-D-galactosamine, giảm đáng kể ở tôm nhiễm EHP so với nhóm khỏe mạnh (Ning & cs., 2019). Vì vậy, có thể suy đoán rằng một hoặc nhiều chất chuyển hóa khác biệt ngoại sinh có thể cải thiện tình trạng tôm chậm phát triển do EHP gây ra.
LNA (18:3n-3), một chuỗi n-3 axit béo không bão hòa đa (PUFA), chủ yếu có nguồn gốc từ dầu thực vật như dầu mè và dầu hạt lanh. Nó thúc đẩy tăng trưởng vật nuôi, tăng cường khả năng miễn dịch và khả năng hoạt động chống oxy hóa, cải thiện chất lượng thịt và giảm mỡ máu (Chen & cs., 2014). Bogut & cs. (2002) phát hiện ra rằng việc bổ sung 1% axit linolenic vào thức ăn cá da trơn tiêu chuẩn có tác dụng có lợi đối với các chỉ số tăng trưởng và chất lượng thịt của cá. Một nghiên cứu khác cho thấy LNA và axit linoleic (LA) ở mức khẩu phần 2% và tỷ lệ 3:1 có lợi cho việc tăng cân và đáp ứng miễn dịch tế bào không đặc hiệu của cá mú non (Wu & Chen, 2012). Trong nghiên cứu này, dựa trên dữ liệu chuyển hóa trước đây của Ning & cs. (2019), LNA đã được chọn để thêm vào thức ăn nhằm khám phá tác động đối với tôm thẻ chân trắng.
Vật liệu và phương pháp
Tôm nhiễm EHP (chiều dài 9,57 ± 0,82 cm; trọng lượng 5,78 ± 1,22 g) được nuôi trong điều kiện sục khí liên tục ở nhiệt độ 26 ± 20C và độ mặn 10‰ trong 7 ngày trước khi thử nghiệm. 360 con tôm được nuôi trong 12 bể (mỗi bể 100L), mỗi bể đặt một lượng lưới nhất định làm nơi trú ẩn để giảm thiểu sự ăn thịt lẫn nhau của tôm thử nghiệm, với độ sâu nước 0,5 m, được chia thành bốn nhóm và ba bể trong mỗi bể nhóm. Các đối tượng được cho ăn 4 chế độ ăn có nồng độ LNA khác nhau (0, 1,2, 2,4 và 4,8 g/kg khẩu phần) hai lần mỗi ngày vào lúc 8:30 và 16:30 trong 30 ngày. Tỷ lệ cho ăn hàng ngày là 3 ~ 6% trọng lượng cơ thể và được điều chỉnh theo phản ứng cho ăn trước đó.
Chế độ ăn thử nghiệm được thực hiện bằng phương pháp phun và sau đó phủ lên trên bằng chất kết dính thức ăn để ngăn LNA rò rỉ trong nước nuôi tôm. Thức ăn đối chứng cũng được phủ một lớp chất kết dính thức ăn bằng nhau. Tất cả các thành phần đã được trộn kỹ. Khẩu phần ăn được bảo quản ở -200C cho đến khi sử dụng, gồm các nghiệm thức:
+ Đối chứng: Không sử dụng axit linolenic LNA
+ Nghiệm thức 1: Bổ sung 1,2 g/kg LNA
+ Nghiệm thức 2: Bổ sung 2,4 g/kg LNA
+ Nghiệm thức 3: Bổ sung 4,8 g/kg LNA
Khi kết thúc thí nghiệm cho ăn, đo chiều dài cơ thể và trọng lượng cơ thể của 30 con tôm được chọn từ mỗi nhóm. Gan tụy nhanh chóng được cắt bỏ, đông lạnh trong đá khô và bảo quản ở -780C cho các thí nghiệm tiếp theo. Và sau đó, Các mẫu tôm tiếp tục tiến hành phân tích.
Kết quả nghiên cứu
Hiệu suất tăng trưởng của tôm
Để phát hiện tác động của LNA đối với năng suất tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng chiều dài cơ thể và trọng lượng cơ thể đã được kiểm tra sau khi thử nghiệm cho ăn. Như thể hiện trong Hình 1A, chiều dài cơ thể trung bình của tôm lần lượt là 9,8, 10,1, 10,8 và 9,9cm trong nhóm đối chứng 0; 1,2; 2,4 và 4,8g/kg. So với nhóm đối chứng (khẩu phần 0g/kg), chiều dài thân tôm tăng rõ rệt ở nhóm khẩu phần ăn 2,4 g/kg (p < 0,001) và không có sự thay đổi đáng kể ở nhóm khẩu phần ăn 1,2 và 4,8 g/kg . Trọng lượng cơ thể trung bình của tôm lần lượt là 6,4, 7,0, 9,0 và 6,0 g trong nhóm 0, 1,2, 2,4 và 4,8 g/kg (Hình 1B). Phù hợp với chiều dài cơ thể, trọng lượng tôm tăng rõ rệt ở nhóm ăn khẩu phần 2,4 g/kg so với nhóm đối chứng. Kết quả cho thấy hiệu suất tăng trưởng của P. vannamei được cải thiện bằng cách bổ sung 2,4 g LNA/kg khẩu phần ăn. Một nghiên cứu tương tự cũng xuất hiện ở Macrobrachium nipponense, với sự gia tăng hàm lượng LNA trong chế độ ăn, tốc độ tăng trưởng của tôm trước tiên tăng lên và sau đó giảm xuống (Luo & cs., 2017). Ngoài PUFA, các axit béo chuỗi ngắn như butyrate và polyhydroxybutyrate (PHB) có thể làm tăng hiệu suất tăng trưởng của động vật thủy sinh.
Hình 1. Ảnh hưởng của LNA đến năng suất tăng trưởng của P. vannamei. Chiều dài (A) trọng lượng cơ thể (B) đã được kiểm tra sau khi thử nghiệm cho ăn.
Biểu hiện gen liên quan đến tăng trưởng và miễn dịch
Kết quả qPCR cho thấy rằng sự phong phú trong bản phiên mã của FaMeT và ERP đã giảm ở nghiệm thức 2,4 g/kg so với nhóm đối chứng (Hình 2A và B). Trong khi đó, mức phiên mã của JHEC1 trong nhóm chế độ ăn 2,4 g/kg được điều chỉnh tăng đáng kể (Hình 2). Như được hiển thị trong Hình 3, bản phiên mã của P44L, lysozyme và CatC được điều chỉnh tăng đáng kể sau khi được cho ăn với các nồng độ LNA khác nhau. Những kết quả này chỉ ra rằng việc bổ sung LNA có thể cải thiện sự tăng trưởng và khả năng miễn dịch của P. vannamei.
Hình 2: Mức độ biểu hiện của FaMeT (A), ERP (B) và JHEC1 (C) sau khi được cho ăn với các nồng độ LNA khác nhau ở tôm thẻ chân trắng P. vannamei bị nhiễm EHP.
Hình 3: Mức độ phiên mã của P44L (A), lysozyme (B) và CatC (C) sau khi được cho ăn với các nồng độ LNA khác nhau ở tôm thẻ chân trắng bị nhiễm EHP.
Hoạt động của các enzym chống oxy hóa
Theo kết quả ở Hình 4A-C, sau khi tôm ăn khẩu phần ăn bổ sung LNA 30 ngày, hoạt tính Cu/Zn-SOD, Mn-SOD và CAT tăng đáng kể ở nhóm khẩu phần ăn 1,2, 2,4 và 4,8 g/kg so với nhóm đối chứng (0 g/kg khẩu phần ăn). Trong khi đó, Hình 4D cho thấy các thông số gây hại do oxy hóa, chẳng hạn như hàm lượng MDA, trong nhóm có chế độ ăn 2,4 g/kg thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (chế độ ăn 0 g/kg). Kết quả cho thấy việc bổ sung LNA trong chế độ ăn làm tăng đáng kể hoạt động của các enzym chống oxy hóa và giảm tổn thương oxy hóa ở nồng độ thích hợp.
Hình 4: Ảnh hưởng của các nồng độ LNA khác nhau đến hoạt động của các enzym trong gan tụy tôm thẻ chân trắng
Tóm lại, hàm lượng LNA thích hợp trong thức ăn có thể cải thiện năng suất tăng trưởng của tôm bị nhiễm EHP và nâng cao khả năng miễn dịch bẩm sinh và khả năng chống oxy hóa của tôm. Nhu cầu LNA tối ưu đối với tôm nhiễm EHP là 2,4 g/kg khẩu phần ăn theo công thức và điều kiện thí nghiệm. Thí nghiệm này không chỉ cung cấp một bộ điều biến trao đổi chất tiềm năng để điều trị bệnh HPM ở tôm thẻ chân trắng P. vannamei mà còn mở rộng tầm nhìn trong nghiên cứu kiểm soát bệnh truyền nhiễm.
Ngọc Anh (Lược dịch)
- EHP li>
- miễn dịch của tôm thẻ li>
- năng suất tăng trường li>
- tôm thẻ chân trắng li> ul>
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Aquaculture Vietnam sẽ trở lại vào tháng 3 năm 2026
- Giá tôm tăng tại Trung Quốc khi nguồn cung giảm từ Ecuador, Ấn Độ
- Thanh Hóa: Sản lượng nuôi trồng thủy sản 9 tháng đầu năm đạt trên 80%
Tin mới nhất
T5,21/11/2024
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
- Đi sâu vào ngành sản xuất tôm của Trung Quốc
- Hội nghị Khách hàng Long Thăng năm 2024: Đột phá tư duy – Phát huy nội lực
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Sản xuất tôm giống Cà Mau chỉ đáp ứng 50% nhu cầu
- Giá tôm lao dốc, nông dân gặp khó
- Inforgraphic: Ngành tôm 6 tháng đầu năm 2024
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
- CEO Chuang Jie Cheng: Vị thuyền trưởng – chắc chèo vững lái vượt sóng thành công
- Loay hoay ‘bài toán’ thiếu hụt nguyên liệu ở ngành thủy sản
- Ra mắt bộ 3 cuốn sách Toàn cảnh ngành chăn nuôi, thú y, thủy sản Việt Nam
- Nhiều mặt hàng thủy sản xuất khẩu bứt phá tăng trưởng cao
- Vướng mắc tại các thị trường nhập khẩu thủy sản lớn
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt