[Người Nuôi Tôm] – Trong bối cảnh ngành tôm Việt Nam vẫn đang phụ thuộc lớn vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu, việc phát triển nguồn tôm bố mẹ được gia hóa trong nước được xem là giải pháp căn cơ để đảm bảo chủ động con giống, nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro dịch bệnh.
Gia hóa tôm bố mẹ là nhiệm vụ dài hạn để đảm bảo tính tự chủ cho ngành tôm Việt
Tôm giống trên thị trường – “Vàng thau lẫn lộn”
Cho tới thời điểm hiện tại, Việt Nam hiện vẫn chưa thể chủ động về tôm bố mẹ, đặc biệt là với đối tượng tôm thẻ chân trắng, loài chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng tôm nuôi của cả nước.
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, trong năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 124.000 con tôm thẻ bố mẹ, 692 con tôm sú bố mẹ, cùng với 16.540 ấu trùng tôm thẻ và 66.000 ấu trùng tôm sú phục vụ sản xuất giống. Hiện tại, khoảng 78,8% tôm thẻ chân trắng bố mẹ vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và 56,9% tôm sú bố mẹ được khai thác từ tự nhiên. Các nguồn nhập chủ yếu đến từ Hoa Kỳ (trên 60%), Thái Lan (28%), cùng với Singapore, Indonesia và một số quốc gia khác.
Ông Lê Văn Quê, Chủ tịch Hiệp hội Giống thủy sản Ninh Thuận, cho biết: “Tôm giống nhập khẩu có ưu điểm đã được chọn lọc di truyền, sạch bệnh, không bị cận huyết nên hạn chế tối đa tình trạng dị tật ở ấu trùng. Tuy nhiên, quá trình vận chuyển xa dễ dẫn đên hao hụt, tôm yếu, khả năng sinh sản giảm. Thậm chí, có lô giống bị lỗi kỹ thuật, nhưng do doanh nghiệp nhập phải tuân theo quy định độc quyền từ phía nước ngoài nên không thế khiếu nại”.
Trong nước, các chương trình chọn tạo tôm bố mẹ mới chỉ dừng ở quy mô thí điểm, chưa đủ khả năng cung ứng ổn định cho ngành sản xuất giống. Sản lượng bố mẹ nội địa chỉ đáp ứng được một phần nhỏ và chưa thể cạnh tranh về chất lượng hay độ đồng đều, dẫn đến rủi ro cao trong sản xuất giống và phụ thuộc lớn vào biến động thị trường quốc tế.
Tính đến đầu năm 2025, cả nước có tổng cộng 1.949 cơ sở sản xuất tôm giống, trong đó gồm 6 cơ sở sản xuất tôm bố mẹ và 1.943 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thương phẩm. Đáng chú ý, tuy toàn bộ 6 cơ sở bố mẹ đều đã được cấp chứng nhận đủ điều kiện hoạt động, nhưng chỉ có 1.551 cơ sở sản xuất và ương dưỡng giống (tương đương 79,82%) được địa phương kiểm tra và xác nhận đạt chuẩn. Điều này đồng nghĩa với việc còn khoảng 20% số cơ sở đang hoạt động chưa được kiểm soát chất lượng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an toàn sinh học và lây lan dịch bệnh.
Thêm vào đó, ông Lê Văn Quê cho biết thị trường tôm giống hiện nay rất đa dạng về hình thức phân phối. Người nuôi có thể mua giống qua đại lý, thương lái, hoặc liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp. Tuy nhiên, tình trạng làm giả bao bì, giả thương hiệu tôm giống đang diễn ra ngày càng phổ biến. “Nhiều doanh nghiệp bị làm giả nhãn hiệu do sản phẩm bị các thương lái gia công trôi nối, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và hoạt động kinh doanh của các đơn vị làm giống chân chính”, ông Quê cảnh báo.
Tôm giống trên thị trường hiện nay rất đa dạng.
Gia hóa tôm bố mẹ là câu chuyện đường dài
Theo ông Trần Công Khôi, Trưởng Phòng Giống và Thức ăn thủy sản (Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Bộ NN&MT), quá trình gia hóa tôm bố mẹ tại Việt Nam đang gặp không ít rào cản. “Việc chọn tạo, gia hóa, sản xuất và ương dưỡng tôm bố mẹ là một quy trình phức tạp, đòi hỏi nguồn lực rất lớn cả về con người lắn cơ sở vật chất. Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay là thiếu hạ tầng phù hợp phục vụ nghiên cứu, đặc biệt là địa điểm đảm bảo an toàn sinh học để triển khai chương trình chọn tạo lâu dài”, ông Khôi cho biết.
Không ít cơ sở nghiên cứu tuy có tiềm năng về kỹ thuật nhưng lại vướng rào cản pháp lý, khiến họ không thể liên kết được với các doanh nghiệp có năng lực tài chính để triển khai chương trình gia hóa quy mô lớn. Ngoài ra, nguồn nguyên liệu di truyền phục vụ cho chọn giống vẫn còn hạn chế, chưa có cơ sở dữ liệu di truyền đủ lớn để thực hiện các bước lai tạo, phân tích và chọn lọc hiệu quả.
Cũng theo ông Khôi, gia hoá tôm bố mẹ không thể “một sớm một chiều”, mà là quá trình cần đầu tư bền bỉ, lâu dài, với yêu cầu cao về nhân lực, vật lực và tính kiên trì. “Chỉ những đơn vị thực sự có tiềm lực và tâm huyết với ngành mới có thể theo đuổi đến cùng mục tiêu này”, ông nhấn mạnh.
Để đẩy nhanh quá trình gia hóa, ông Khôi cho rằng, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba trụ cột chính: Nhà nước, các viện nghiên cứu và cộng đồng doanh nghiệp. “Nhà nước cần đóng vai trò tạo hành lang pháp lý thuận lợi và ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ cụ thể để các doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư. Các viện nghiên cứu có thế mạnh về nhân lực và kỹ thuật chuyên sâu, trong khi doanh nghiệp là nơi sở hữu tiềm lực tài chính và nhu cầu thực tiền cao về giống chất lượng”, ông Khôi đề xuất.
Với vai trò là cơ quan quản lý, Cục Thủy sản và Kiểm ngư khẳng định luôn sẵn sàng đồng hành và hỗ trợ các đơn vị có năng lực và mong muốn tham gia chương trình gia hóa giống tôm bố mẹ nội địa. Mục tiêu hướng tới là hình thành chuỗi sản xuất giống khép kín, chủ động nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh, giúp Việt Nam từng bước thoát khỏi phụ thuộc nhập khẩu và nâng cao tính cạnh tranh cho ngành tôm trên thị trường quốc tế.
Theo ông Ming Hsien Chen, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH Khoa kỹ sinh vật Thăng Long, Chi nhánh Ninh Thuận, để tự chủ hoàn toàn nguồn tôm bố mẹ, Việt Nam cần một chiến lược bài bản và lâu dài, kéo dài ít nhất từ 10 – 15 năm. Ông Ming Hsien Chen đã để xuất các nhóm giải pháp chính để từng bước hiện thực hoá mục tiêu này:
Đầu tiên, cần đối mới công nghệ và nghiên cứu di truyền: Tăng đầu tư vào công nghệ chọn lọc gen, lai tạo kháng bệnh, ứng dụng sinh học phân tử để phát triển đàn tôm bố mẹ chất lượng cao, phù hợp với điều kiện nuôi trồng ở Việt Nam. Sau đó là phát triển hệ thống nuôi bố mẹ hiện đại: Xây dựng các kho gen và trung tăm nuôi tôm bố mẹ với chuẩn an toàn sinh học nghiêm ngặt, đảm bảo cung ứng giống ổn định, sạch bệnh.
Đi cùng với phát triển cơ sở vật chất, Chính phủ cần đưa ra những chính sách hỗ trợ và tiêu chuẩn hóa, như ưu đãi về thuế, vốn tín dụng; xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng giống nghiêm ngặt để tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh. Đầu tư đào tạo đội ngũ kỹ sư, nhà khoa học có chuyên môn về di truyền, dịch bệnh và quản lý giống thủy sản. Tăng cường hợp tác quốc tế, kết nối với các tổ chức nghiên cứu, di truyền trên thế giới để tiếp cận công nghệ mới và mô hình quản lý tiên tiến.
Trong bối cảnh ngành tôm Việt Nam đang bước vào giai đoạn cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường toàn cầu, việc chủ động được nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh, chất lượng cao không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là chiến lược sống còn để đảm bảo tính bền vững cho toàn chuỗi sản xuất. Gia hóa tôm bố mẹ “made in Việt Nam” đòi hỏi tầm nhìn dài hạn, sự kiên trì đầu tư và sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và giới nghiên cứu. Nếu thực hiện đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên làm chủ cuộc chơi, không chỉ là quốc gia sản xuất tôm hàng đầu, mà còn là trung tâm cung ứng giống tôm chất lượng cao của khu vực.
Trần My
- giá hoá tôm bố mẹ li>
- tôm giống li> ul>
- Mục tiêu đến năm 2030: Ngành tôm giống tự chủ hơn 60% tôm bố mẹ
- 180 lô tôm hùm giống nhập khẩu được kiểm tra, giám sát
- Thực tiễn sản xuất tôm: Câu chuyện về giống nội địa và ngoại nhập
- Hiệp hội tôm giống Bình Thuận: Lo ngại nguy cơ đổ vỡ chuỗi sản xuất
- Số hoá kiểm dịch: Bước đột phá trong ngành giống
- Giám sát tôm hùm giống: Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm
- Di truyền tôm thẻ chân trắng: Xu hướng hiện tại và tương lai
- Hà Tĩnh: Tăng cường kiểm soát chất lượng tôm giống vụ xuân – hè 2025
- Kiểm soát chất lượng tôm giống mùa vụ 2025: Bước đệm quan trọng
- Tôm giống chất lượng cao: Những đặc điểm nổi bật
Tin mới nhất
T6,22/08/2025
- Bangladesh: Chậm chân trong làn sóng tôm thẻ chân trắng toàn cầu
- Hà Tĩnh: Cần sớm đầu tư hạ tầng cho vùng nuôi thủy sản Kỳ Khang và Hải Ninh
- An Giang: Kỳ vọng trở thành trung tâm nuôi tôm vùng ĐBSCL
- Gia hoá tôm bố mẹ: Khó nhưng không thể trì hoãn
- FDA cảnh báo nguy cơ phóng xạ, thu hồi tôm đông lạnh nhập khẩu từ Indonesia
- Nông dân đổi đời nhờ mô hình canh tác hiện đại
- Cà Mau dẫn đầu cả nước về diện tích, quy mô và sản lượng nuôi tôm
- Tôm nuôi “được mùa, được giá” nông dân phấn khởi
- Trí tuệ nhân tạo (AI): Mở lối nghề nuôi trồng thuỷ sản thông minh
- Ứng dụng công nghệ RAS-IMTA vào nuôi tôm giúp giảm phát thải, bảo vệ môi trường
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Người nuôi tôm phập phồng với “ngày nắng, đêm mưa”
- Động lực phát triển đột phá ngành thủy sản
- Công nghệ sinh học toàn diện: Giải pháp nuôi tôm thành công từ Tâm Việt
- Biện pháp kiểm soát khí độc Nitrite (NO2) trong mô hình nuôi tôm TLSS-547
- Ngành chức năng và nông dân Quảng Nam cùng gỡ khó cho nuôi tôm nước lợ
- Thời tiết bất lợi gây thiệt hại hơn 27 triệu con tôm sú, tôm thẻ nuôi
- [Tuyển dụng] – Công ty TNHH Seven Hills Trading tuyển dụng nhiều vị trí hấp dẫn trong năm 2025
- Nhiều diện tích tôm nuôi của Nghệ An bị bệnh đốm trắng
- Nuôi tôm càng xanh VietGAP: Giảm chi phí, tăng lợi nhuận
- Thời tiết bất lợi, người nuôi tôm treo đùng
- An toàn sinh học: Giải pháp then chốt cho bài toán dịch bệnh thủy sản
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân