Tính chất của nước ao nuôi tôm
Trong môi trường nuôi, động vật thủy sản có thể hấp thu được Canxi (Ca) và Magie (Mg) thông qua nguồn nước hoặc thức ăn. Nồng độ Ca và Mg ít khi được đo trong các ao nuôi, tuy nhiên chúng lại quyết định đến tổng độ cứng của nước ao.
Độ cứng được hiểu là nồng độ của các cation hóa trị hai mà chủ yếu là canxi cacbonat tương đương.
Độ cứng có thể được thể hiện ở các hình thức khác nhau: tổng độ cứng và độ cứng Ca có sự khác biệt là độ cứng Mg. Tổng độ cứng là tổng của độ cứng Ca và độ cứng Mg. Các yếu tố để chuyển đổi giữa các độ cứng cation và độ cứng như sau: Ca = độ cứng Ca x 2,5 và Mg x 4,12.
Trong đó, vôi được sử dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản có nguồn gốc từ đá vôi, góp phần tạo nên độ cứng của nước. Ở nước ngọt, hầu hết độ cứng và độ kiềm là tương tự nhau và có phạm vi < 5 – 150 mg/L. Ở những vùng đất khô cằn, độ cứng thường vượt quá 100 mg/L và lớn hơn độ kiềm.
Độ cứng phù hợp của nước nuôi tôm dao động từ 20 – 150ppm. Nếu độ cứng của nước cao trên 300ppm, tôm sẽ khó lột vỏ và có tốc độ tăng trưởng chậm.
Ca2+ và Mg2+ là hai hàm lượng của độ cứng nước
Độ cứng của nước được xác định là tổng hàm lượng Ca2+ và Mg2+ có trong nước. 2 ion này chính là tác nhân gây ra độ cứng của nước. Canxi và Magie là 2 ion chủ yếu và quan trọng đối với tôm và cá trong quá trình thành lập xương, vẩy và một số quá trình trao đổi chất. Sự hiện diện ion tự do canxi trong nước còn giúp ngăn ngừa quá trình thất thoát muối Natri và Kali ra khỏi màng tế bào trong cơ thể tôm cá.
Độ cứng tối ưu cho nuôi tôm là từ 100 – 250 mg/l CaCO3.
Canxi và Magie là 2 ion chủ yếu và quan trọng đối với tôm và cá
Ca đóng vai trò quan trọng trong hệ thống nước cung cấp cho bể ương giống. Nếu độ cứng và độ kiềm trong ao cao có thể dẫn đế sự kết tủa của các muối canxi cacbonat. Động vật thủy sản có thể nhận được Ca và Mg từ trong nước và thức ăn của chúng.
Thông thường, Ca và Mg được bổ sung đầy đủ cho vật nuôi, tuy nhiên Ca và Mg được cung cấp qua thức ăn thường thấp. Ở những ao có độ kiềm thấp thì Ca và Mg cũng có nồng độ thấp và cần phải bổ sung thêm vôi để cải thiện.
Khi bón một lượng phân phosphate cần thiết để duy trì lượng thực vật phù du trong ao cũng có thể làm tăng nồng độ Ca, đặc biệt là khi pH được nâng lên.
Ngoài ra, Ca còn có tác dụng trong việc giảm pH khi xảy ra trường hợp tỷ lệ quang hợp cao. Khi tảo phát triển, sẽ làm cạn kiệt nguồn CO2, chúng có thể sử dụng bicarbonate như một nguồn CO2. Nhưng khi sử dụng bicarbonat, sẽ tạo kết hợp với (CO32- ) tạo thành CaCO3 giúp giảm thiểu lượng (CO32- ) và ổn định pH.
Tại những nơi có độ kiềm cao và nồng độ Ca thấp, sẽ làm cho pH tăng cao một cách nguy hiểm khi quá trình quang hợp trong ao được đẩy mạnh. Khi đó, Calcium sulfate có thể được sử dụng để làm tăng nồng độ các ion canxi. Nếu độ cứng tương đương hoặc lớn hơn độ kiềm khoảng 2 mg/l thì lượng Calcium sulfate cần bổ sung là 1 mg/L.
Nồng độ như thế nào là thích hợp
Đối với ao nuôi thủy sản nước ngọt, độ cứng và độ mềm thích hợp cho sự phát triển của các loài nuôi là 60 mg/L. Tại một số vùng nội địa, nơi có độ mặn thấp kéo theo nồng độ Mg thấp làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự phát triển của tôm.
Trong trường hợp này, nồng độ Mg được tăng lên bằng cách bổ sung thêm Kali magnesium sulfate hoặc Magnesium vào ao nuôi. Theo nghiên cứu, nồng độ lý tưởng của magie trong ao nuôi có độ mặn thấp là khoãng 40:1.
Nhìn chung người nuôi có thể đo độ cứng bằng công thức tính từ hai hàm lượng trên hoặc đơn giản là sử dụng kit test để kiểm tra. Hoặc hãy nhanh chóng lấy mẫu nước mang đến cơ sở xét nghiệm gần nhất để có kết quả nhanh chóng, chính xác.
Mây
Nguồn: Tép Bạc