[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Hiện nay, đầu vào nuôi tôm, từ con giống, thức ăn, nhiên liệu, thuốc phòng, trị bệnh, chế phẩm sinh học, nhân công đều tăng ngay từ đầu vụ, vì vậy muốn giảm chi phí người nuôi cần quan tâm tới tất cả các khâu trong quy trình nuôi.
Lựa chọn con giống tốt, điều chỉnh chế độ ăn phù hợp và sử dụng chế phẩm sinh học tốt giúp người nuôi giảm chi phí và nâng cao lợi nhuận trong nuôi tôm
Những năm gần đây, nuôi tôm ngày một khó khăn do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, xuất hiện nhiều bệnh mới trên tôm nuôi và đặc biệt là các dịch vụ đầu vào phục vụ trong nuôi tôm tăng cao, giá thành tôm thương phẩm lại không ổn định, muốn có lợi nhuận cao thì việc tìm ra các giải pháp để giảm được chi phí luôn là trăn trở lớn của các hộ dân và tổ chức doanh nghiệp nuôi tôm. Để làm được điều này, hộ nuôi cần áp dụng một số biện pháp dưới đây.
Chọn tôm giống tốt
Người nuôi cần chọn được con giống tốt nhằm hạn chế rủi ro ngay từ khâu này. Chọn mua tôm giống (SPF-giống sạch bệnh, SPR-giống kháng bệnh).
Kích cỡ PL10-12 ở những cơ sở sản xuất có uy tín, tôm bố mẹ có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; tôm giống đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quy định của ngành và được kiểm soát tốt về an toàn sinh học trại giống; Trước khi bắt giống 03 ngày, thông báo với cơ sở sản xuất các chỉ số môi trường nước ao ương (pH, độ mặn) để cơ sở sản xuất giống thuần hóa giống phù hợp với các điều kiện ao ương; Kiểm tra chất lượng tôm giống trước khi mua theo yêu cầu, đảm bảo tôm giống phải đạt các tiêu chuẩn sau:
Bảng 1: Những tiêu chuẩn lựa chọn tôm giống chất lượng cao
Kiểm tra chất lượng tôm giống khi vận chuyển về cơ sở nuôi: Các bao tôm giống về ao ương còn nguyên vẹn, đủ lượng oxy; tôm khỏe mạnh; bơi phân tán đều trong bao. Kiểm tra lại pH và độ mặn của 03 túi tôm giống bất kỳ lấy chỉ số trung bình so với pH và độ mặn của ao ương để có biện pháp xử lý (thuần) trước khi thả tôm giống để hạn chế hao hụt. Khi chọn được tôm giống tốt thì tiến hành thả tuân thủ lịch thời vụ của cơ quan chức năng đã ban hành.
Cho ăn hợp lý
Đây là khoản chi phí chiếm tỷ lệ cao nhất trong nuôi tôm vậy nên cần cho ăn hơi thiếu: Thông thường, ao được quản lý thức ăn tốt thì hệ số thức ăn (FCR) thấp, cụ thể FCR = 1,1-1,2 đối với tôm thẻ và FCR = 1,3- 1,4 đối với tôm sú. FCR chỉ cần giảm 0,1 thì cứ 1 tấn tôm, người nuôi đã tiết kiệm được 3.000.000 đồng (= 0,1 x 1.000 kg x 30.000 đồng/kg). Cắt giảm thức ăn sẽ được lợi kép, vừa giảm tiền mua thức ăn thừa, vừa giảm các sự cố trong ao do thức ăn thừa gây ra.
Điều chỉnh thức ăn từng cữ trong ngày theo thời tiết, đặc biệt 2 yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng bắt mồi của tôm là nhiệt độ nước và lượng oxy hòa tan. Chỉ cho tôm ăn 70-80% lượng thức ăn theo bảng hướng dẫn của các công ty thức ăn. Cắt giảm mạnh hoặc thậm chí ngưng cho ăn trong các trường hợp đàn tôm đang lột xác, tôm nổi đầu thiếu oxy, tôm nhiễm bệnh hoặc ao nuôi ô nhiễm nặng như tảo chết/tàn.
Sử dụng chế phẩm sinh học có chất lượng tốt
Đây là khâu hết sức quan trọng trong nuôi tôm, đặc biệt là trước tình trạng thị trường thuốc, chế phẩm sinh học phục vụ cho nuôi tôm rất đa dạng về chủng loại, nhiều đơn vị sản xuất và cung ứng. Việc người nuôi lựa chọn được sản phẩm có chất lựơng ngoài việc giúp sử dụng có hiệu quả nó còn giảm đáng kể chi phí và ngược lại chất lượng kém liều lượng dùng sẽ tốn kém và không hiệu quả.
Đối với chế phẩm sinh học nên lựa chọn được các sản phẩm có sự hiện hữu của một số nhóm: Bacillus là nhóm vi khuẩn yếm khí. Do đó ít tiêu hao oxy trong ao khi sử dụng, thích hợp sử dụng trong ao và trộn vào thức ăn. Nhóm này chịu nhiệt cao, thuận lợi trong quá trình chế biến thức ăn viên hay Lactobacillus, nhóm vi khuẩn yếm khí tuỳ nghi, có khả năng phân giải bột đường thành axit hữu cơ.
Nhóm vi khuẩn Vibrio có lợi: giống Vibrio có rất nhiều loài, trong đó có loài có lợi cho môi trường, vô hại đối với vật nuôi, nhưng cũng có loài là vi khuẩn gây bệnh phổ biến cho động vật thủy sản. Sử dụng chế phẩm sinh học chứa các loài vi khuẩn thuộc giống Vibrio có lợi nhằm cạnh tranh về số lượng với các loài Vibrio gây bệnh, hạn chế hoặc triệt tiêu cơ hội gây bệnh cho các loài vi khuẩn gây bệnh có trong ao.
Nitrobacter, Nitrosomonas là nhóm vi khuẩn hiếu khí. Đây là các vi khuẩn giúp biến đổi các khí độc NH3 thành sản phẩm ít độc NO3 qua quá trình nitrate hoá. Khi sử dụng sẽ tiêu hao nhiều oxy trong ao. Do đó, cần cung cấp đủ oxy để đảm bảo sức khỏe cho vật nuôi và tăng hiệu quả hoạt động của men vi sinh. Những nhóm này có trong các sản phẩm như: EZPon, lactich 47 của Famentech, … Sau khi lựa chọn được thuốc, chế phẩm sinh học có chất lượng tốt người nuôi nên thực hiện việc sử dụng theo nguyên tắc 3 đúng (đúng bệnh, đúng thuốc, đúng liều lượng).
Chạy quạt mạnh
Đảm bảo oxy ở vùng rìa chất thải tối thiểu 4ppm. Ước tính mỗi ngựa (HP) cung cấp oxy cho 400 kg tôm và mỗi kí điện (kW) cung cấp cho 500kg tôm trong ao. Giúp gom chất thải vào giữa ao, cung cấp oxy để oxy hóa chất thải, giúp tôm bắt mồi tốt và tăng trưởng nhanh. Thiết kế cống xả chất thải ở trung tâm ao (nếu vùng đáy ao cao) để định kỳ rút đáy hoặc xiphon chất thải. Sử dụng vi sinh EZPon của Famentech,… định kỳ để phân hủy chất thải (thức ăn thừa, phân tôm, xác tảo).
Nguyễn Hải
Tập san Khuyến nông
- giảm chi phí trong nuôi tôm li> ul>
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Tin mới nhất
T2,25/11/2024
- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương
- Virus hoại tử cơ trên tôm thẻ: Giải mã tương tác và kháng virus
- 20 năm phát triển của Khoa Thủy sản và những đóng góp cho ngành thủy sản miền Bắc
- Quy trình rơm: Chuyển đổi mô hình nuôi để giảm thiểu chi phí và rủi ro
- Amoniac trong ao tôm: Chiến lược kiểm soát hiệu quả
- Xuất khẩu tôm có thể đạt 4 tỷ USD trong năm 2024
- Nuôi tôm vụ nghịch: Lợi nhuận lớn, rủi ro cao
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 11/2024
- Giá tôm Indonesia giai đoạn 2023-2024: Giải mã nguyên nhân sụt giảm
- Chiết xuất riềng đỏ: Ức chế vi khuẩn gây bệnh phân trắng
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Hội chợ triển lãm Công nghệ ngành Thủy sản Việt Nam lần đầu tiên tổ chức tại miền Bắc
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt