[Người nuôi tôm] – Trong các hệ thống biofloc, một cộng đồng các vi sinh vật dị dưỡng chủ yếu được kích thích phát triển bằng cách điều khiển tỷ lệ carbon/nitơ (C/N) trong nước với việc bổ sung thêm một nguồn carbon hữu cơ bên ngoài (Avnimelech, 2007, 2012). Cộng đồng vi sinh vật này, cùng với tảo, động vật nguyên sinh, mảnh vụn và các hạt hữu cơ, hình thành các tập hợp gọi là “flocs” góp phần duy trì chất lượng nước tốt bằng cách hấp thụ amoni và ngăn ngừa sự tích tụ các hợp chất nitơ vô cơ độc hại.
Vi sinh vật dị dưỡng sử dụng carbon hữu cơ ( bao gồm carbohydrate) được bổ sung và từ nguồn nitơ thải ra từ thức ăn để tạo năng lượng, phát triển và sản xuất các tế bào mới. Thông thường, tỷ lệ C/N từ 15 –20 để đảm bảo cho quá trình đồng hóa amoniac của các vi khuẩn dị dưỡng.
Tỷ lệ C/N có thể được tăng lên bằng cách điều chỉnh thức ăn hoặc bổ sung thêm carbohydrate. Nếu bổ sung C với tỉ lệ thích hợp sẽ tăng cường quá trình chuyển hóa nitơ vô cơ thành protein trong sinh khối vi sinh vật. Carbon hữu cơ thường được bổ sung thông qua các carbohydrate như: tinh bột, rỉ đường, cám gạo, glycerol… Các loại carbohydrate khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau tới sự hình thành của biofloc. Gần đây, các polyme như axit poly-β- hydroxybutyric (PHB) và polycaprolactone (PCL), đã được nghiên cứu như là carbohydrate thay thế để khử nitrat.
Một nhóm các nhà khoa học từ Đại học Thượng Hải Đại Dương đã điều tra tiềm năng của việc sử dụng PHB như một nguồn carbohydrate bổ sung để cho hệ thống nuôi tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei theo công nghệ biofloc. Họ nhấn mạnh rằng phương pháp này có thể làm giảm sự phức tạp của việc điều chỉnh tỷ lệ C / N trong một hệ thống biofloc cho nuôi tôm.
Một thử nghiệm quy mô phòng thí nghiệm kéo dài 40 ngày đã được thực hiện để điều tra tiềm năng của PHB như là một carbohydrate bổ sung cho một ao ươm tôm thẻ chân trắng.
Họ đã đánh giá ba phương pháp bổ sung carbohydrate. Phương pháp đầu tiên là bổ sung glucose (đường đơn) hàng ngày vào với tỷ lệ 75% của thức ăn; phương pháp thứ hai là bổ sung Poly-β- hydroxybutyrate (PHB) kết hợp với glucose, khi tổng nitơ amoniac (TAN) lớn hơn 2 mg/L; và phương pháp thứ ba là chỉ bổ sung Poly- β-hydroxybutyrate (PHB).
Kết quả: Nồng độ trung bình của TAN trong nhóm PHB + GLU (0,23 ± 0,19 mg/L) thấp hơn đáng kể so với nhóm chỉ bổ sung 2 chất này riêng lẻ. Nồng độ nitơ TAN và nitrite từ nhóm PHB + GLU ổn định hơn so với nhóm 2 nhóm còn lại. Tỷ lệ sống và trọng lượng cuối cùng trong nhóm PHB + GLU cao hơn đáng kể so với các nhóm khác ( P <0,05). Kết hợp lại với nhau, kết quả đã cho thấy PHB là một carbohydrate bổ sung thuận lợi và phù hợp nhất cho hệ thống nuôi tôm thẻ chân trắng theo công nghệ biofloc trong nước lợ. Poly-β-hydroxybutyrate (PHB) kết hợp với glucose là phương pháp bổ sung carbohydrate tốt nhất.
Báo cáo này đã cung cấp thêm thông tin về carbohydrate mới có thể được ứng dụng rộng rãi trong hệ thống nuôi tôm theo công nghệ biofloc. Nghiên cứu cũng cho thấy nếu sử dụng loại carbohydrate phù hợp để bổ sung vào hệ thống biofloc không chỉ giúp duy trì chất lượng nước mà còn nâng tỉ lệ sống và trọng lượng của tôm nuôi.
- Cá tra, tôm “nín thở” chờ giá lên
- Hiệu quả mô hình Biofloc trong nuôi tôm
- Đề nghị ‘nói thật hết những góc khuất’ của ngành tôm
- Để ngành tôm vùng ĐBSCL phát triển bền vững
- Công tác thú y thủy sản: Quyết định thành, bại của vụ nuôi
- Bột ruồi lính đen: Cải thiện sức khỏe của tôm thẻ chân trắng
- Ngưỡng giới hạn của Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản là 150 mg/kg
- Có “vua tôm” bảo lãnh, ngân hàng cũng không dám cho vay nuôi tôm
- Hành trình ACIAR 30 năm: 243 dự án nghiên cứu nông nghiệp năng suất, bền vững tại Việt Nam
- Infographic: Xuất khẩu tôm Việt Nam, T1-T4/2023
Tin mới nhất
CN,28/05/2023
- Cá tra, tôm “nín thở” chờ giá lên
- Hiệu quả mô hình Biofloc trong nuôi tôm
- Đề nghị ‘nói thật hết những góc khuất’ của ngành tôm
- Để ngành tôm vùng ĐBSCL phát triển bền vững
- Công tác thú y thủy sản: Quyết định thành, bại của vụ nuôi
- Bột ruồi lính đen: Cải thiện sức khỏe của tôm thẻ chân trắng
- Ngưỡng giới hạn của Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản là 150 mg/kg
- Có “vua tôm” bảo lãnh, ngân hàng cũng không dám cho vay nuôi tôm
- Hành trình ACIAR 30 năm: 243 dự án nghiên cứu nông nghiệp năng suất, bền vững tại Việt Nam
- Infographic: Xuất khẩu tôm Việt Nam, T1-T4/2023
Các ấn phẩm đã xuất bản
- USSEC: Hướng tới kỷ nguyên nuôi biển bền vững tiến xa bờ
- BTC FISTECH và Chi Cục Thủy sản Quảng Ninh: Họp bàn kế hoạch phối hợp tổ chức FISTECH 2023
- Diện tích và sản lượng tôm nước lợ năm 2022
- Ngành thuỷ sản miền Bắc – miền Trung: “Sân chơi” đầy sức hút
- Long Thăng: Triển khai chương trình “Tôm to xế xịn 2023”
- Hiệu quả vượt trội với mô hình nuôi cá điêu hồng Thăng Long
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Nuôi cá “Sông trong Ao”: Công nghệ bền vững, năng suất cao, sản phẩm sạch
- Mô hình nuôi tôm TLSS: Giải pháp nuôi tôm hiệu quả của Công ty TNHH Quốc tế Long Thăng
- Hướng dẫn phòng, chống bệnh do vi bào tử trùng (EHP)
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống
- Xử lý triệt để nấm và vi khuẩn có hại trong ao tôm giống và tôm thịt
- Từ lo lắng đến an tâm nuôi tôm về đích trước bệnh đốm trắng nhờ giải pháp phòng trị mới từ Grobest Việt Nam
- Vi sinh ức chế – phòng ngừa vi khuẩn gây bệnh phân trắng có yếu tố vi bào tử trùng