Xây dựng Đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng trọng điểm về công nghiệp tôm: Nhìn từ “thủ phủ” tôm Bạc Liêu

Phải khẳng định rằng, nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu chính là thế mạnh hàng đầu của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), không chỉ dẫn đầu cả nước về tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2023 với 95%, mà còn tham gia giải quyết việc làm, tạo sinh kế cho hơn 4 triệu lao động. Trong đó, con tôm là sản phẩm chủ lực chiếm khoảng 40% và đem về hơn 3,4 tỷ USD. Chính thế mạnh đặc thù này mà Chính phủ đề ra mục tiêu xuất khẩu con tôm đến năm 2025 phải đạt 10 tỷ USD, cũng như các tỉnh ĐBSCL đã thể hiện quyết tâm trong Quy hoạch tổng thể đến năm 2030 và tầm nhìn 2050 cùng chung tay xây dựng vùng ĐBSCL trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm của cả nước.

Tuy nhiên, muốn thực hiện thắng lợi khát vọng này không phải là chuyện dễ làm trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp khó lường, hạn hán, xâm nhập mặn cùng thiếu nguồn nước ngọt từ thượng nguồn Mê-Kông đã đặt ra nhiều thách thức cho phát triển bền vững và cần lắm sự chung tay góp sức của đồng bằng để hóa giải các thách thức, nguy cơ này trở thành thời cơ cho một đồng bằng giàu tiềm năng, thế mạnh về phát triển con tôm.

Còn vì sao phải chọn Bạc Liêu để nhìn và nghiên cứu, bởi từ năm 2010, từ khóa “thủ phủ tôm Bạc Liêu” đã được hình thành và đưa vào Nghị quyết của nhiều kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, đặc biệt năm 2017 Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu được thành lập theo Quyết định 694 của Thủ tướng Chính phủ và đây cũng là khu nông nghiệp chuyên về con tôm duy nhất của khu vực ĐBSCL và cả nước. Thế nhưng, hình hài về một trung tâm ngành công nghiệp tôm của cả nước qua gần 14 năm thực hiện giấc mơ “thủ phủ” ngành tôm vẫn chưa được hiện rõ và Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cho con tôm vẫn chưa được đưa vào khai thác. Do vậy, việc tập trung phân tích, đánh giá và thẳng thắn nhìn nhận các “điểm nghẽn” cùng hàng loạt các “nút thắt” trong thực hiện Đề án xây dựng Bạc Liêu trở thành Trung tâm ngành công nghiệp tôm của cả nước và đề ra các giải pháp cũng chính là góp phần giải quyết các khó khăn, thách thức cho phát triển con tôm công nghiệp của cả khu vực ĐBSCL hiện nay. Đồng thời, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu 10 tỷ USD cho con tôm vào năm 2025 và chủ động tạo ra năng lực cạnh tranh, khả năng ứng phó với các nước xuất khẩu tôm hàng đầu trên thế giới.

Bài 1: Nhiều thách thức từ ô nhiễm môi trường

Đến nay, Bạc Liêu được xác định là một trong những tỉnh trọng điểm về nuôi tôm và xếp vào tốp 3 của cả nước về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Thế nhưng, sự phát triển của con tôm xuất khẩu cũng đặt ra nhiều thách thức cho phát triển bền vững. Trong đó, suy thoái, ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn đề nóng và được đặt lên hàng đầu trong điều kiện nguồn tài nguyên nước dần cạn kiệt và cảnh con tôm “khát nước ngọt” được dự báo sẽ còn gay gắt hơn trong điều kiện hạn mặn ngày càng gia tăng.

Các bộ, ngành và doanh nghiệp tham quan mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao trong nhà kín của Tập đoàn Việt – Úc.

Dẫn đầu cả nước về nuôi tôm công nghệ cao

Bạc Liêu có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản hơn 140.000ha, cho tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 2023 trên 388.740 tấn. Trong đó, có nhiều mô hình nuôi tôm hiệu quả như: nuôi thâm canh, bán thâm canh, siêu thâm canh, tôm – lúa, tôm – rừng, được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đánh giá cao về tính bền vững, lợi nhuận cao hơn  từ 15 – 30% so với độc canh cây lúa. Đây chính là tiền đề vững chắc để Bạc Liêu bứt phá và làm giàu từ con tôm. Đặc biệt, trong những năm qua, các doanh nghiệp của tỉnh đã xây dựng nên những mô hình nuôi tôm hiện đại ứng dụng công nghệ cao đứng đầu cả nước mà điển hình là mô hình nuôi tôm siêu thâm canh của Tập đoàn Việt – Úc. Với mô hình nuôi này, Tập đoàn Việt – Úc đã xây dựng các khu phức hợp ứng dụng công nghệ cao bên trong các nhà kín. Các ao nuôi đều được lót bạt dưới đáy, nguồn nước mặn được xử lý tiệt trùng bằng một ao lắng với nhiều trang thiết bị hiện đại. Mỗi ao nuôi đều được trang bị thiết bị thu sóng siêu âm sonar, quạt nước, máy bơm oxy… hoạt động liên tục 24/24 giờ, nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho con tôm phát triển. Cùng với đó là các công nghệ vượt trội khác được ứng dụng như: công nghệ cho ăn tự động, đo lường tự động, thử nghiệm các phát minh mang tính đột phá, bền vững trong ngành tôm: quy trình nuôi biofloc, quy trình nuôi bằng giá thể sinh học, quy trình xử lý nước tuần hoàn, quy trình nuôi không sử dụng kháng sinh…

Bên cạnh mô hình nuôi tôm trong nhà kính, tập đoàn còn áp dụng mô hình nhà màng bong bóng nuôi tôm. Đây là công nghệ nuôi mới từ Israel được triển khai lần đầu tiên ở Việt Nam và cũng là mô hình tiên tiến giúp tiết kiệm chi phí, đảm bảo hiệu quả nhất hiện nay. Với mỗi ao có diện tích 500m2, mật độ nuôi là 300 con/m2 và cho thu hoạch từ 12 – 16 tấn/vụ/năm và mang về lợi nhuận hàng chục tỷ đồng/ha/năm cho các mô hình nuôi hiện đại bật nhất này.

Ngoài Tập đoàn Việt – Úc, Bạc Liêu còn xuất hiện nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã nuôi tôm với các mô hình hiện đại khác cho siêu lợi nhuận như: Công ty Long Mạnh, Công ty Trúc Anh, Hợp tác xã nuôi tôm ứng dụng cao Đông Hải…

Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, con tôm đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GRDP và giải quyết việc làm, thu nhập cho hàng ngàn lao động của địa phương. Năm 2022, ngành tôm Bạc Liêu đã phát huy vai trò nòng cốt và góp phần đưa tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh đạt 9,6%, đứng thứ 4/13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL và đứng thứ 15/63 tỉnh, thành cả nước. Năm 2023, Bạc Liêu tiếp tục đứng vào tốp đầu của khu vực ĐBSCL về tăng trưởng kinh tế (đứng thứ 5/13 tỉnh, thành khu vực ĐBSCL).

Thu hoạch tôm nuôi công nghiệp.

Tài nguyên nước là “Cốt lõi”

Có thể nói, con tôm đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, nhưng cũng chính sự phát triển nóng của con tôm, nhất là mô hình nuôi tôm siêu thâm canh đã kéo theo hàng loạt các vấn nạn về ô nhiễm môi trường và đã đến lúc phải cảnh báo.

Hiện các địa phương có diện tích nuôi tôm lớn gần như “bó tay” với các mô hình nuôi này và không thể xử lý được, vì đến nay vẫn chưa có quy hoạch cụ thể cho từng vùng nuôi. Kéo theo đó là tình trạng tôm chết hàng loạt do ô nhiễm môi trường. Trong vài năm gần đây, nhiều hộ nuôi tôm ở huyện Đông Hải thay nhau “thất trắng”. Đó là sự phát triển quá nhanh của các mô hình nuôi tôm tự phát, trong khi hệ thống kênh thủy lợi bị bồi lắng nhanh và không đủ nước cấp cho con tôm. Ông Đỗ Kiên (xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải) than: “Mấy năm nay, nông dân nuôi tôm khó lắm, nuôi tôm công nghiệp tự phát phát triển nhanh và gần như không có kiểm soát. Đáng lo là khi tôm chết, mạnh nhà nào nấy xả nước ô nhiễm ra kênh nội đồng, dù hệ thống kênh thủy lợi rất cạn và cứ chảy đi, chảy lại chứ không thoát được ra ngoài. Thế là cả khu vực phải chấp nhận lấy “nước kho”, nghĩa là nguồn nước bị ô nhiễm ấy cứ được lấy vào phục vụ cho nuôi tôm mới, khi tôm bị chết lại thải ra và hộ khác lại lấy vào, cứ “kho” đi “kho” lại nguồn nước cũ rồi kéo nhau thiệt hại hết”.

Nông dân Bạc Liêu sử dụng bơm chìm để khai thác nước ngầm phục vụ cho nuôi tôm.

Theo phản ánh của nhiều hộ nuôi tôm, nguyên nhân làm cho thiếu nước trầm trọng là ngoài hệ thống kênh thủy lợi ít được nạo vét thì một số công trình khác còn “làm khổ” người dân khi thi công theo “tiến độ rùa” và vấn đề này đã được phản ánh nhiều lần với UBND tỉnh, nhất là các công trình thủy lợi cho vùng Nam Quốc lộ 1A (QL1A). Không chỉ có địa bàn huyện Đông Hải, khu vực ven biển TP. Bạc Liêu mà nhiều dự án thủy lợi khác ở vùng Nam QL1A cũng thế. Nhu cầu về thủy lợi phục vụ cho nuôi tôm thì bức xúc, nhưng qua thống kê của ngành Nông nghiệp cho thấy, hệ thống kênh mương thủy lợi hiện nay chỉ mới đáp ứng khoảng 40% nhu cầu nước cho con tôm, trong khi lượng nước thải từ con tôm cứ tăng theo cấp số nhân.

Theo tính toán của ngành Tài nguyên – Môi trường, thông thường các ao nuôi tôm công nghiệp có chiều sâu mực nước hơn 1,3m – 1,5m. Như vậy, với hơn 20.000ha nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp ở khu vực ven biển, mỗi vụ sẽ phát sinh khoảng 2.600 triệu mét khối nước thải ra môi trường. Trong khi đó, nước thải sau vụ nuôi tôm chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh như: Vibrio, Aeromonas, E.coli, Pseudomonas, Proteus, Staphylococcus…, cùng nhiều loại nấm và nguyên sinh động vật không được xử lý triệt để thải thẳng ra nguồn nước tiếp nhận gây ô nhiễm nguồn nước, lan tràn dịch bệnh và gây nên thiệt hại trên diện rộng.

Một vấn đề đáng cảnh báo khác là sự phát triển nóng của con tôm còn làm cạn kiệt nguồn nước ngầm và kéo theo nạn thiếu nước ngọt trầm trọng. Đó là thực trạng vào mùa khô, độ mặn vượt lên con số từ 30 – 40‰, trong khi độ mặn thích nghi và giúp con tôm sống được chỉ dừng ở mức từ 15 – 20‰.

Để “giải khát” và cứu con tôm, các hộ nuôi tôm buộc phải khoan giếng hút nước ngầm, nhằm pha loãng nước mặn phục vụ cho nuôi tôm làm cho tình trạng mực nước ngầm xuống thấp dẫn đến sụt lún đất nền tự nhiên bình quân 1 – 2cm/năm. Từ đó, mỗi khi triều cường lên cao, diện tích ngập úng càng lớn hơn và kéo theo nguy cơ ô nhiễm, cạn kiệt nguồn tài nguyên nước ngày càng nghiêm trọng. Trong đó, vùng Nam QL1A lại là vùng nuôi tôm công nghiệp chính và trọng điểm của tỉnh với các mô hình nuôi tôm siêu thâm canh có diện tích 4.000ha, nuôi thâm canh, bán thâm canh diện tích gần 22.000ha.

Hệ thống thủy lợi vùng Nam Quốc lộ 1A bị bồi lắng gây khó trong cấp nước cho nuôi tôm. Ảnh: L.D – M.Đ

Theo Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Ngọc Trân – nhà nguyên cứu các vấn đề chiến lược của vùng ĐBSCL, cảnh báo: “Người nông dân vùng ĐBSCL sẽ phải trả giá đắt nếu như khai thác và gây lãng phí nguồn nước ngầm. Với việc xây dựng các đập thủy điện trên sông Mê-Kông và biến đổi khí hậu, nông dân sẽ “chết khát”, nạn sụt lún, hạn hán, xâm nhập mặn sẽ liên tiếp diễn ra nếu như không có ngay các giải pháp cứu lấy môi trường và quản lý tài nguyên nước”.

Với những thách thức được đặt ra cho thấy, một trong những giải pháp hàng đầu trong thực hiện Đề án xây dựng Bạc Liêu trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm của cả nước hiện nay chính là tập trung giải bài toán về môi trường, nhất là bảo vệ môi trường nước. Bởi đây là vấn đề trọng yếu hàng đầu có liên quan trực tiếp đến phát triển bền vững và quyết định Bạc Liêu có trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm của cả nước hay không! Đặc biệt, trong Quyết định 287 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 đã đề ra quan điểm phát triển – đó là phát triển vùng ĐBSCL theo hướng phát triển bền vững, tăng trưởng xanh gắn với việc thực hiện Nghị quyết 120 của Chính phủ; chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển nền tảng văn hóa – xã hội và hệ sinh thái tự nhiên; lấy “con người” làm trung tâm; coi tài nguyên nước là cốt lõi; quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên toàn lưu vực đảm bảo việc duy trì nguồn sống cho môi trường và người dân; chuyển đổi mô hình sinh kế tại các tiểu vùng theo hướng chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Qua đó, càng khẳng định tầm quan trọng của tài nguyên nước, không chỉ đóng vai trò là “cốt lõi”, mà còn là vấn đề mang tính sống còn cho phát triển bền vững của cả ĐBSCL trong hiện tại và tương lai, nhất là tình trạng khô hạn, thiếu nguồn nước ngọt ở khu vực ĐBSCL trong mùa khô năm 2024 đã gióng lên một hồi chuông về những thách thức mà nguồn nước chính là “mạch sống” trong sản xuất nông nghiệp và tạo ra sinh kế cho hàng triệu nông dân của vùng ĐBSCL.

Kim Trung – Kiên Nhẫn

Báo Bạc Liêu

 

Tin mới nhất

CN,08/09/2024