[Tạp chí Người Nuôi Tôm] – Chất lượng thức ăn quyết định tới sản lượng và lợi nhuận trong nuôi trồng thủy sản. Thức ăn thủy sản (TATS) chứa nhiều thành phần nguyên liệu khác nhau và thường xuyên thay đổi, việc kiểm soát tốt nguyên liệu đầu vào để tạo ra chất lượng thức ăn ổn định và bền vững là những yêu cầu mới hiện nay.
Toàn cảnh hội thảo “Dinh dưỡng thức ăn thủy sản”
Đây là thông điệp chính được chuyên gia đến từ Hội đồng xuất khẩu đậu tương Hoa Kỳ (USSEC) – GS. Dominique P Bureau, Đại học Guelph, Canada – chia sẻ tại hội thảo “Dinh dưỡng thức ăn thủy sản”, do USSEC phối hợp với Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 16/5/2024, tại Hà Nội.
Ứng dụng công nghệ mới trong kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào
Để đáp ứng nhu cầu ngày một cao của ngành, cũng như trong bối cảnh tình hình giá nguyên liệu ngày một tăng như hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất TATS luôn phải tìm kiếm những loại nguyên liệu thay thế phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu về dinh dưỡng, đồng thời phải đảm bảo được chi phí sản xuất hợp lý. Việc sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản “tiết kiệm chi phí” với chất lượng ổn định phụ thuộc vào đặc tính chính xác của thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng và đặc tính hóa lý của nguyên liệu thức ăn. Nhiều bằng chứng cho thấy, sử dụng các loại nguyên liệu sản xuất TATS khác nhau sẽ có sự biến đổi đáng kể về thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng và chất lượng của thành phần thức ăn thành phẩm. Điều quan trọng là phải theo dõi và điều chỉnh công thức theo sự thay đổi này. Chính vì vậy, việc kiểm soát và phân tích được thành phần của nguyên liệu sản xuất TATS là vô cùng cần thiết.
Các kỹ thuật kiểm soát chất lượng (QC) thường được các nhà sản xuất thức ăn sử dụng, nhưng kỹ thuật này cũng có những hạn chế đáng kể như mức độ phù hợp, độ chính xác, thời gian xử lý, chi phí… Để hỗ trợ các nhà máy sản xuất TATS, nhiều công nghệ mới giúp phân tích thành phần, chất lượng của nguyên liệu đã được áp dụng.
GS. Dominique P Bureau, Đại học Guelph, Canada
Theo GS. Dominique, hiện nay công nghệ hóa nước, quang phổ hấp thụ cận hồng ngoại (NIRS), phòng thí nghiệm hoặc sử dụng hóa chất là những phương pháp và công nghệ chính đang được các nhà máy sản xuất TATS áp dụng để kiểm soát nguyên liệu. Ngoài ra, còn một số công nghệ như máy chuẩn độ tự động (pH-Stat), máy phân tích quang phổ Raman, máy phân tích huỳnh quang tia X (XRF).
Những công nghệ mới này phân tích những yếu tố chỉ tiêu kỹ thuật mới trong nguyên liệu như: Phương pháp đánh giá độ tin cậy của axit amin, xét nghiệm khả năng tiêu hóa protein in vivo và in vitro, các chỉ số hóa học về sự phá hủy protein do nhiệt, các chỉ số chất lượng lipid, các chỉ số về chất lượng hạt và phân tích nhanh khoáng chất.
“Có khá nhiều công nghệ và chỉ tiêu kỹ thuật mới hiện nay được sử dụng để đánh giá, phân tích và quản lý chất lượng protein trong nguyên liệu sản xuất TATS, để biết được các thành phần protein bị phá hủy bởi nhiệt như thế nào. Hội thảo hôm nay sẽ tập trung đi sâu vào phân tích và cách áp dụng những công nghệ này”, GS. Dominique chia sẻ.
Nói về thành phần của các axit amin, đây là những nhân tố quan trọng để đánh giá chất lượng nguồn protein cung cấp. Trong thực tế, việc phân tích những thành phần dinh dưỡng và khả năng tiêu hóa của axit amin rất phức tạp, tốn kém và có những sai số bởi chúng luôn có sự thay đổi. Những nhà sản xuất TATS hiện nay phần lớn đều áp dụng công nghệ tiên tiến nhất là NIRS để xử lý.
Theo GS. Dominique, đến 90% kết quả phân tích khả năng tiêu hóa axit amin từ NIRS đều có những sai số nhất định. Việc tập trung vào chất lượng của công việc nghiên cứu, kiểm tra và lặp lại kiểm tra là bước quan trọng. “Phân tích thành phần axit amin là điều cần thiết, để phân tích được thành phần axit amin có thể tiêu hóa được là việc cực kỳ khó, nhưng nó lại đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiểm tra chất lượng protein, công đoạn này cũng gây tốn kém về mặt kinh tế”, GS. Dominique cho hay.
Các xét nghiệm về khả năng tiêu hóa in vivo kết hợp với các xét nghiệm khả dụng sinh học in vivo, khi được thực hiện đúng cách sẽ có độ tin cậy cao nhất. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là chậm, tốn thời gian và tốn kém chi phí. Trong khi đó, các nhà máy cần xét nghiệm nhanh chóng, với kết quả chính xác và chi phí hợp lý để dự đoán khả năng tiêu hóa của protein và axit amin. Máy phân tích quang mổ Raman đã khắc phục được vấn đề thời gian, công nghệ này cho kết quả rất nhanh, chỉ mất vài phút, tuy nhiên chi phí đầu tư vẫn ở mức cao.
“Tuy vậy, các phương pháp tiếp cận và công nghệ mới sẽ giúp tiết kiệm thời gian và có thể khai thác đặc tính tốt hơn của các thành phần, giúp sản phẩm của các nhà máy TATS trở nên dễ tiếp cận hơn với giá thành cạnh tranh”, GS. Dominique kết luận.
Xu hướng lựa chọn nguyên liệu hướng tới tiêu chuẩn bền vững
Một vấn đề quan trọng được các bên liên quan khác nhau trong ngành thủy sản đặc biệt quan tâm chính là “sự bền vững về môi trường trong sản xuất TATS”.
Theo GS. Dominique, sự biến đổi khí hậu là yếu tố chủ chốt ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, điển hình là tình trạng phát thải khí nhà kính. Thức ăn chăn nuôi, thủy sản là nguyên nhân chính tạo ra chất thải và phát thải khí nhà kính trong sản xuất nuôi trồng thủy sản. Ông cũng chỉ ra những động lực chính tạo ra chất thải và phát thải khí nhà kính như: Tổng lượng carbon nội tại phát sinh từ những nguyên liệu sử dụng sản xuất TATS; hệ số chuyển đổi thức ăn; cân đối dinh dưỡng trong thức ăn đối với khả năng tiêu hoá; khả năng tiêu hóa rõ ràng của chất khô và chất dinh dưỡng.
Trước những ảnh hưởng tiêu cực đó, GS. Dominique cho rằng cần phải tập trung nỗ lực giảm chất thải và phát thải khí nhà kính từ gốc, tức là cải thiện thức ăn và cho ăn cũng như chọn được nguyên liệu thức ăn phù hợp.
TS. Bùi Ngọc Thanh, Giám đốc Kỹ thuật USSEC khu vực miền Bắc
Theo TS. Bùi Ngọc Thanh, Giám đốc Kỹ thuật USSEC khu vực miền Bắc, đậu nành có giá trị dinh dưỡng phù hợp trong nuôi trồng thủy sản bởi hàm lượng đạm cao, chiếm 36%, dầu và chất xơ không hòa tan đều chiếm 19%, 9% đường, 13% ẩm và 4% khoáng. Quan trọng, việc canh tác đậu nành có tác động tốt tới thiên nhiên nhờ đặc tính giảm xói mòn, tiết kiệm tài nguyên đất, nước, giảm phát thải nhà kính lên đến 42%.
Trong một nghiên cứu, USSEC đã chứng minh chất lượng vượt trội của đậu nành Hoa Kỳ khi so sánh với đậu nành Argentina và Brazil. Kết quả cho thấy, các chỉ số protein thô, lipit và năng lượng tổng của đậu nành Hoa Kỳ đều đạt tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 91%, 87% và 86%.
Có thể thấy, trong sản xuất TATS, mỗi nguyên liệu sản xuất ở các vùng khác nhau sẽ có những hàm lượng dinh dưỡng khác nhau, tỷ lệ phát thải carbon khác nhau. Việc lựa chọn đúng loại nguyên liệu là vô cùng quan trọng, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ tiêu hóa và tăng trưởng của vật nuôi. Lựa chọn đúng chất liệu sản xuất sẽ tác động trực tiếp tới việc tiết giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu suất và góp phần thúc đẩy quá trình giảm phát thải carbon ra môi trường.
Các đại biểu tham dự hội thảo chụp ảnh lưu niệm
Phạm Huệ – Phương Nhung
Ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất TATS có ý nghĩa rất lớn đối với ngành nuôi trồng thủy sản
Trong bối cảnh hiện nay, chi phí thức ăn chiếm 70-80% tổng chi phí cho hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong bối cảnh giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, giá thành sản phầm đầu ra giảm mạnh. Việc ứng dụng công nghệ mới giúp tiết kiệm chi phí trong sản xuất TATS, tác động trực tiếp tới việc hạ giá thành sản xuất, nâng cao hiệu suất nuôi trồng có ý nghĩ rất lớn đối với ngành nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó, xu hướng giảm khai thác, tăng nuôi trồng hướng tới sự bền vững đã phần nào đẩy giá nguyên liệu protein từ bột cá tăng cao, gây áp lực không nhỏ tới các nhà máy sản xuất TATS. Do vậy, sự thay thế từ nguồn protein đậu nành góp vai trò không nhỏ cho dinh dưỡng thức ăn chăn nuôi, thủy sản.
Với những vấn đề được đề cập trên, hội thảo của USSEC đã mang lại những thông tin hữu ích và ý nghĩa tới các nhà sản xuất TATS, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành thủy sản Việt Nam.
GS. TS Kim Văn Vạn
Trưởng Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
- Khoa Thủy sản li>
- USSEC li> ul>
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Ngành tôm Ecuador 2025: Thách thức bủa vây
- Xuất khẩu tôm Quý I: Tín hiệu khởi sắc
- Cơ cấu giá thành nuôi tôm nước lợ tại Việt Nam
- TPD: Vụ tôm mới, nỗi lo cũ
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 3/2025
- Nuôi tôm dễ dàng, thành công vững vàng cùng thức ăn đa tầng STP của Japfa Việt Nam
- Hà Tĩnh: Sẵn sàng cho vụ tôm xuân – hè 2025
- MiXscience Asia: Bộ sản phẩm phòng ngừa EHP, EMS, WFS, WSSV, TPD
- Học hỏi công nghệ xử lý nước nuôi trồng thủy sản tiên tiến từ Israel
Tin mới nhất
T2,31/03/2025
- Cám gạo lên men: Thức ăn giàu protein cho tôm sú
- TAURINE: Hỗ trợ giảm thời gian chờ sinh sản của tôm mẹ
- Thực khuẩn thể: Bước tiến mới trong phòng trị bệnh vi khuẩn cho tôm
- Công cụ di động chẩn đoán virus đốm trắng trong 24 giờ
- VHVP-2: Đặc điểm gen trong Vibrio gây bệnh TPD
- Bệnh đốm trắng: Nguyên nhân chính gây giảm năng suất tôm
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Oxy sinh học và oxy hóa học: Sự khác biệt về nhu cầu
- Công nghệ thông minh AIoT: Cơ hội chuyển mình cho ngành thủy sản
- Di truyền tôm thẻ chân trắng: Xu hướng hiện tại và tương lai
- Sản lượng tôm toàn cầu ước đạt 6 triệu tấn vào năm 2025
- Cà Mau giữ vững vị thế xuất khẩu tôm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
- Nuôi tôm nước lợ công nghệ cao, nông dân Bến Tre thu về hơn 6.300 tỷ đồng
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Giá trị xuất khẩu thủy sản khởi sắc những tháng đầu năm
- Tăng cường kiểm soát thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu
- Đề xuất thành lập “nhóm đặc nhiệm” về thương mại nông sản Việt Nam – Singapore
- Hà Nội thúc đẩy phát triển nguồn lợi thủy sản
- Sản lượng thủy sản tháng đầu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Xác nhận thực tế về giải pháp thức ăn mới có lợi cho việc giảm thiểu EHP ở Đông Nam Á
- Huyền Rơm: Bông hồng trẻ đam mê nghiên cứu vi sinh thủy sản
- Kết quả sản xuất tôm nước lợ năm 2024 tại các địa phương
- Grobest: Nâng tầm tôm Việt với di sản 50 năm phát triển bền vững
- 10 vụ tôm liên tiếp thành công cùng mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Grobest
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống