[Người Nuôi Tôm] – Hoạt động của người nuôi không chỉ ảnh hưởng đến việc sản xuất của mình, mà còn có thể ảnh hưởng tới các trang trại nuôi lân cận và tác động đến môi trường tự nhiên. Do đó, các rủi ro nhất định đã vượt qua ranh giới trong trang trại và được chia sẻ giữa các trang trại.
Khi ngành nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển, rủi ro liên quan đến sản xuất cũng tăng theo. Điểm nổi bật nhất của “rủi ro cấp vùng” mà ngành tôm hiện đang phải đối mặt là dịch bệnh, nhưng rủi ro lũ lụt và ô nhiễm nguồn nước cũng thường được chia sẻ giữa nhiều người nuôi tôm. Giải quyết các loại rủi ro chung này đòi hỏi sự hợp tác giữa những người nuôi tôm với nhau. Có nhiều cách khác nhau để tổ chức hợp tác giữa nông dân trong một khu vực địa lý cụ thể. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể hiểu được tất cả những điều này, và cách tiếp cận nào phù hợp nhất để giải quyết các vấn đề chung như bệnh tật?
Các phương pháp tiếp cận quản lý rủi ro do bên ngoài .
Các phương pháp tiếp cận hiện tại để quản lý rủi ro nuôi trồng thủy sản bên ngoài trang trại có thể được nhóm thành hai loại (A và B trong Hình 1). Chiếm ưu thế nhất là tổng hợp các phương pháp tiếp cận theo chủ nghĩa cá nhân, thay vì tập thể để quản lý rủi ro. Một ví dụ điển hình là trang trại của nhiều nông dân được chứng nhận riêng lẻ. Trong hầu hết các tiêu chuẩn chứng nhận, thực hành quản lý rủi ro được xác định ở cấp độ trang trại riêng lẻ và quá trình chứng nhận bao gồm mức độ kiểm soát cao của các tác nhân bên ngoài. Nông dân được đánh giá để xác định xem họ có đáp ứng các tiêu chuẩn này hay không. Mặc dù đã có những nỗ lực rõ ràng để mở rộng quy mô các phương pháp tiếp cận này thông qua việc phát triển các chương trình chứng nhận nhóm, việc phát triển các chương trình chứng nhận nhóm vẫn bị hạn chế về khả năng giải quyết các rủi ro cấp khu vực như dịch bệnh vì hai lý do. Thứ nhất, họ xác định các thực hành quản lý rủi ro ở cấp độ cá nhân, điều này không khen thưởng hoặc thúc đẩy sự hợp tác giữa nông dân. Thứ hai, chúng mang tính quy định và được tiêu chuẩn hóa theo định nghĩa, do đó không thể tính đến điều kiện sản xuất của địa phương. Vì lý do này, những nông dân không có năng lực hoặc nguồn tài chính cần thiết để tuân thủ các yêu cầu này sẽ tự động bị loại trừ.
Loại thứ hai của quản lý rủi ro ngoài trang trại là cách tiếp cận cấp khu vực. Một ví dụ phổ biến là quy hoạch không gian của các khu vực nuôi trồng thủy sản. Thực hành quản lý rủi ro được xác định ở cấp khu vực hoặc cảnh quan. Thông thường, những người khởi xướng cố gắng đưa nông dân vào định nghĩa về thực hành quản lý rủi ro, nhưng họ vẫn có xu hướng liên quan đến kiểm soát bên ngoài. Các cách tiếp cận này cũng gặp khó khăn trong việc giải quyết các rủi ro cấp khu vực. Vấn đề là khi các khu vực cần cải thiện được xác định bởi các tác nhân bên ngoài ở quy mô quá lớn, người nông dân có ít điểm chung với nhau. Người nông dân ít có khả năng hợp tác với những người nông dân khác mà họ không biết hoặc những người gặp rủi ro khác nhau.
Tìm một giải pháp thay thế toàn diện
Nếu các tác nhân bên ngoài đấu tranh để thúc đẩy nông dân hợp tác để giải quyết những rủi ro được chia sẻ, thì có cách nào khác để tiếp cận quản lý rủi ro ngoài trang trại không? Một nghiên cứu gần đây về những người nuôi tôm và cá rô phi quy mô nhỏ ở Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam cho thấy rằng nông dân đang giải quyết chung các rủi ro như dịch bệnh trong các mạng lưới địa phương và ở quy mô mà họ gặp phải những rủi ro tương tự có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất. Trong các mạng lưới này, nông dân ràng buộc với nhau theo hai cách.
Đầu tiên, những người nông dân được kết nối với nhau thông qua sự hiểu biết chung về rủi ro. Nông dân hợp tác với nhau ở quy mô địa lý, trong đó họ có chung hiểu biết về rủi ro sản xuất. Ở quy mô địa phương này, những người nông dân đã nghiên cứu trao đổi thông tin về chất lượng đầu vào, tình hình dịch bệnh và giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Nông dân đã tìm kiếm sự hợp tác để giải quyết những rủi ro mà họ không thể giải quyết riêng lẻ hoặc trong ranh giới của trang trại của họ.
Không chỉ những rủi ro chung mới ràng buộc những người nông dân này với nhau mà còn là mối quan hệ xã hội của họ. Những người nông dân được kết nối với nhau thông qua các mối quan hệ xã hội dựa trên quan hệ họ hàng, địa phương, tình bạn và nghề nghiệp. Trong khi các mạng lưới kinh doanh ở Bắc Âu và Bắc Mỹ nói chung được hình thành thông qua sự tham gia có chủ đích của các cơ quan bên ngoài, như các hiệp hội ngành, ở hầu hết các nước Đông và Đông Nam Á, các mạng lưới này có xu hướng được phát triển một cách hữu cơ hơn và thông qua các mối quan hệ cá nhân. Các mối quan hệ xã hội trong mạng lưới của những nông dân được nghiên cứu cũng thúc đẩy sự hợp tác.
Tăng cường các phương pháp tiếp cận với sự hợp tác do nông dân lãnh đạo
Các sáng kiến bên ngoài đấu tranh để giải quyết các rủi ro cấp khu vực, nhưng hành vi hợp tác quản lý rủi ro dường như xuất hiện thông qua các mạng cục bộ. Làm thế nào chúng ta có thể sử dụng phát hiện này để tiến tới và phát triển các phương pháp tiếp cận hiệu quả hơn để quản lý rủi ro ngoài trang trại?
Trong thực tế, điều này có hai ý nghĩa. Đầu tiên, nông dân nên được tổ chức dựa trên các mạng xã hội hiện có mà họ đã chia sẻ rủi ro một cách hiệu quả. Khi người mua thành lập nhóm để chứng nhận nhóm hoặc khi cán bộ khuyến nông nhóm nông dân với mục đích đào tạo, các mạng xã hội hiện có này nên được coi là điểm khởi đầu. Thứ hai, Sự hiểu biết của chính nông dân về rủi ro cần được tính đến khi xác định mục tiêu. Các cơ quan tiêu chuẩn có thể bao gồm các ưu tiên rủi ro của nông dân trong quá trình thiết lập tiêu chuẩn, hoặc quan hệ đối tác công tư có thể trao quyền cho nông dân để tự xác định mục tiêu quản lý rủi ro của họ. Mặc dù không có quy trình đơn giản hoặc hiển nhiên để làm như vậy, nhưng nếu chúng ta muốn bắt đầu giải quyết các rủi ro cấp khu vực, thì các bước này là rất cần thiết.
Ngoài ra, các mạng lưới hợp tác quản lý rủi ro cục bộ này có thể được sử dụng làm kế hoạch chi tiết cho việc phát triển các phương pháp tiếp cận hoàn toàn mới. Điểm khởi đầu trở thành hiểu biết hiện có của nông dân về quản lý rủi ro. Điều này đòi hỏi người nông dân phải trao quyền cho người nông dân để xác định rủi ro và quy mô của việc hợp tác quản lý rủi ro, điều mà các tác nhân bên ngoài khó kiểm soát. Nó sẽ đòi hỏi một sự chuyển dịch triệt để từ điểm xuất phát của sự kiểm soát bên ngoài, sang điểm mà người nông dân tự tổ chức, dựa trên sự hiểu biết của họ về rủi ro. Một trong đó các tác nhân bên ngoài tin tưởng rằng các nhóm nông dân trong các cấu hình cụ thể sẽ giải quyết chung các rủi ro sản xuất. Mặc dù việc phát triển một cách tiếp cận như vậy đòi hỏi phải điều tra thêm về cách chuyển niềm tin hiện có giữa nông dân địa phương sang các tác nhân bên ngoài,
Để giải quyết rủi ro cấp khu vực trong nuôi trồng thủy sản, chúng ta cần bắt đầu suy nghĩ khác về cách quản lý rủi ro giữa các khu vực. Việc khắc phục một số hạn chế của các phương pháp tiếp cận hiện tại và phát triển các phương pháp mới để mở rộng quy mô quản lý rủi ro ở Châu Á và hơn thế nữa đòi hỏi sự hiểu biết tốt hơn về hành vi quản lý rủi ro trên các quốc gia và thị trường. Để hiểu đầy đủ về quản lý rủi ro, điều cần thiết là phải hiểu cách người nông dân giải thích rủi ro và liên hệ với những người nông dân khác trong vùng nuôi chung của họ.
Tố Uyên
(Lược dịch từ bài viết của tác giả Mariska Bottema)
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Ngành tôm Ecuador 2025: Thách thức bủa vây
- Xuất khẩu tôm Quý I: Tín hiệu khởi sắc
- Cơ cấu giá thành nuôi tôm nước lợ tại Việt Nam
- TPD: Vụ tôm mới, nỗi lo cũ
- Đón đọc Tạp chí Người Nuôi Tôm số tháng 3/2025
- Nuôi tôm dễ dàng, thành công vững vàng cùng thức ăn đa tầng STP của Japfa Việt Nam
- Hà Tĩnh: Sẵn sàng cho vụ tôm xuân – hè 2025
- MiXscience Asia: Bộ sản phẩm phòng ngừa EHP, EMS, WFS, WSSV, TPD
- Học hỏi công nghệ xử lý nước nuôi trồng thủy sản tiên tiến từ Israel
Tin mới nhất
T2,31/03/2025
- Phương pháp lên men cám gạo: Tăng dinh dưỡng, cải thiện nước ao nuôi tôm
- Cám gạo lên men: Thức ăn giàu protein cho tôm sú
- TAURINE: Hỗ trợ giảm thời gian chờ sinh sản của tôm mẹ
- Thực khuẩn thể: Bước tiến mới trong phòng trị bệnh vi khuẩn cho tôm
- Công cụ di động chẩn đoán virus đốm trắng trong 24 giờ
- VHVP-2: Đặc điểm gen trong Vibrio gây bệnh TPD
- Bệnh đốm trắng: Nguyên nhân chính gây giảm năng suất tôm
- Nuôi tôm trong bể xi măng: Giải pháp bền vững cho ngành thủy sản
- Oxy sinh học và oxy hóa học: Sự khác biệt về nhu cầu
- Công nghệ thông minh AIoT: Cơ hội chuyển mình cho ngành thủy sản
- Sản lượng tôm toàn cầu ước đạt 6 triệu tấn vào năm 2025
- Cà Mau giữ vững vị thế xuất khẩu tôm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
- Nuôi tôm nước lợ công nghệ cao, nông dân Bến Tre thu về hơn 6.300 tỷ đồng
- Quý 3/2024: Ngành tôm đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản
- Đồng Nai: Ứng dụng công nghệ cao phát triển nghề nuôi tôm
- Kết nối cung cầu tôm giống Ninh Thuận tại Cà Mau
- Giá tôm giảm sâu, người nuôi điêu đứng
- “Phòng các bệnh trên tôm nuôi và các giải pháp giảm chi phí sản xuất tôm”
- Giá trị xuất khẩu thủy sản khởi sắc những tháng đầu năm
- Tăng cường kiểm soát thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu
- Đề xuất thành lập “nhóm đặc nhiệm” về thương mại nông sản Việt Nam – Singapore
- Hà Nội thúc đẩy phát triển nguồn lợi thủy sản
- Sản lượng thủy sản tháng đầu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái
- Phú Yên: Số lồng nuôi thủy sản vượt quy hoạch 3,8 lần
- ICAFIS và bước chân đầu tiên trên hành trình xây dựng bể chứa carbon ngành thuỷ sản
- Tăng cường các biện pháp chống nóng trong nuôi trồng thủy sản
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Xác nhận thực tế về giải pháp thức ăn mới có lợi cho việc giảm thiểu EHP ở Đông Nam Á
- Huyền Rơm: Bông hồng trẻ đam mê nghiên cứu vi sinh thủy sản
- Kết quả sản xuất tôm nước lợ năm 2024 tại các địa phương
- Grobest: Nâng tầm tôm Việt với di sản 50 năm phát triển bền vững
- 10 vụ tôm liên tiếp thành công cùng mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Grobest
- Bộ sản phẩm Miễn dịch của Grobest: Đỉnh cao phòng chống bệnh ở tôm, tôm khỏe mạnh mọi giai đoạn
- Grobest giải mã nguyên nhân và đưa ra giải pháp phòng ngừa bệnh phân trắng trên tôm
- Tổng Giám đốc Tập đoàn HaiD Việt Nam: Chiến lược chinh phục thị trường Việt
- Gói tín dụng 15.000 tỷ đồng: Trợ lực giúp doanh nghiệp vượt khó
- Sri Lanka: Ra mắt gói bảo hiểm rủi ro cho các trang trại tôm đầu tiên tại châu Á
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân
- Solagron Việt Nam: Ra mắt sản phẩm vi tảo ngôi sao Thalas*Algae dành cho tôm giống