[Người Nuôi Tôm] – Đằng sau những con số xuất khẩu hàng tỷ USD là không ít thách thức mà ngành tôm Việt Nam cần thẳng thắn nhìn nhận. Trong đó, ngành giống đang phải đối mặt với những thách thức mang tính cấu trúc khó có thể giải quyết bằng các biện pháp đơn lẻ.

Các cơ sở sản xuất giống đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, hướng tới chủ động nguồn tôm bố mẹ và nâng cao chất lượng con giống (Ảnh: Q.M)
Trước thực trạng đó, ngày 16/10, Bộ NN&MT phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức hội nghị “Phát triển tôm giống nước lợ”. Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến chủ trì hội nghị.
Nỗ lực giảm phụ thuộc nhập khẩu
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư tại Hội nghị, giai đoạn 2020 – 2024, diện tích nuôi tôm nước lợ của Việt Nam duy trì ổn định khoảng 740.000 ha/năm, với nhu cầu 150 – 155 tỷ con giống, tương đương 260.000 tôm bố mẹ mỗi năm. Trong số này, nguồn tôm bố mẹ trong nước tăng mạnh, từ 21.300 con năm 2020 lên 44.510 con năm 2024, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu, 87% tôm thẻ chân trắng bố mẹ vẫn phải nhập khẩu.
Lượng tôm bố mẹ nhập khẩu có xu hướng giảm, từ 183.890 con năm 2020 xuống 123.520 con năm 2024, chủ yếu từ Hoa Kỳ (chiếm 74,5%) và Thái Lan. Trong số 12 nhà cung cấp quốc tế, SIS Hawaii chiếm 76,9% thị phần, CPF đứng thứ hai với 10%. Công ty Moana là đơn vị duy nhất nhập khẩu ấu trùng tôm sú chọn giống, cung cấp 1.000 – 2.000 tôm bố mẹ và sản xuất 1 – 1,5 tỷ ấu trùng Nauplius mỗi năm.
Tín hiệu tích cực là tỷ lệ tôm bố mẹ sản xuất trong nước tiếp tục tăng trong 9 tháng đầu năm 2025, cho thấy nỗ lực giảm phụ thuộc nhập khẩu và nâng cao tự chủ nguồn giống. Hiện các tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Cà Mau và Vĩnh Long chiếm hơn 90% tổng số cơ sở sản xuất giống và hơn 60% sản lượng cả nước.
Theo kế hoạch của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, đến năm 2030, ngành tôm sẽ duy trì công suất hiện có, hiện đại hóa hạ tầng và bảo đảm 50% cơ sở đạt chuẩn an toàn dịch bệnh. Cả nước dự kiến có hơn 10 cơ sở chọn tạo, sản xuất tôm bố mẹ, cung ứng 200.000 – 250.000 con/năm. Mục tiêu đến năm 2030 là đạt sản lượng 160 – 200 tỷ con giống, trong đó tôm thẻ chân trắng 120 – 150 tỷ con và tôm sú 40 – 50 tỷ con, hướng tới sự tự chủ và phát triển bền vững cho ngành tôm Việt Nam.
Tuy nhiên, hội nghị cũng thẳng thắn chỉ ra những sức ép lớn của ngành giống từ cả yếu tố nội tại lẫn bên ngoài. Ở khía cạnh nội tại, sự phụ thuộc lớn vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu cùng trình độ công nghệ sản xuất chưa đồng đều giữa các cơ sở khiến năng lực chủ động của ngành còn hạn chế. Trong khi đó, yếu tố ngoại cảnh cũng tạo thêm áp lực nặng nề: dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp, biến đổi khí hậu tác động trực tiếp đến môi trường sản xuất và tình trạng giống trôi nổi, kém chất lượng tiếp tục làm xói mòn lòng tin của người nuôi và thị trường.
Bảng 1: Kết quả sản xuất tôm bố mẹ, tôm giống trong nước
| TT | Chỉ tiêu | Đơn vị tính | Năm 2020 | Năm 2021 | Năm 2022 | Năm 2023 | Năm 2024 | 9 tháng đầu năm 2025 |
| 1 | Tôm bố mẹ | nghìn con | 210,24 | 223,91 | 204,03 | 183,17 | 189,78 | 162,68 |
| 1.1 | Tôm sú bố mẹ | nghìn con | 6,12 | 37,52 | 38,46 | 37,83 | 49,24 | 39,48 |
| Từ tự nhiên | nghìn con | 5,05 | 34,68 | 32,54 | 32,45 | 32,46 | 27,17 | |
| Từ chọn giống | nghìn con | 1,07 | 2,84 | 5,92 | 5,38 | 16,79 | 12,31 | |
| Kết quả giám sát thời gian sử dụng | nghìn con | 4,58 | 9,52 | 12,86 | 14,53 | 26,10 | 21,15 | |
| 1.2 | Tôm thẻ chân trắng bố mẹ | nghìn con | 204,13 | 186,39 | 165,57 | 145,34 | 140,53 | 123,20 |
| Nguồn gốc từ nhập khẩu | nghìn con | 183,89 | 165,11 | 140,59 | 123,52 | 112,81 | 99,20 | |
| Nguồn gốc từ sản xuất trong nước | nghìn con | 20,24 | 21,27 | 21,17 | 21,82 | 27,72 | 24,00 | |
| Nguồn khác | nghìn con | 0,00 | 0,00 | 3,81 | 0,00 | 0,00 | 0,00 | |
| Kết quả giám sát thời gian sử dụng | nghìn con | 104,20 | 179,67 | 163,79 | 78,52 | 41,59 | 118,00 | |
| 2 | Tôm giống thương phẩm | tỷ con | 153,14 | 152,43 | 160,79 | 144,01 | 153,68 | 127,97 |
| 2.1 | Tôm sú | tỷ con | 40,14 | 40,56 | 42,42 | 37,91 | 41,90 | 34,07 |
| Nauplius | tỷ con | 0,00 | 0,00 | 0,55 | 0,56 | 0,53 | 0,53 | |
| Post Larvae | Tỷ con | 40,14 | 40,56 | 42,42 | 37,91 | 41,90 | 34,07 | |
| 2.2 | Tôm thẻ chân trắng | tỷ con | 113,00 | 111,87 | 118,37 | 106,11 | 111,78 | 93,90 |
| Nauplius | tỷ con | 4,24 | 4,54 | 3,31 | 0,16 | 1,97 | 1,97 | |
| Post Larvae | Tỷ con | 113,00 | 111,87 | 118,37 | 106,11 | 111,78 | 93,90 |
Nguồn số liệu: Báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư tại Hội nghị Phát triển giống tôm nước lợ đến năm 2030, ngày 16/10/2025
Điểm nghẽn hành chính và sức ép thị trường
Theo Hiệp hội Giống Thủy sản Ninh Thuận – Khánh Hòa, vướng mắc cấp bách nhất hiện nay của ngành là thủ tục cấp điều kiện cho các khu nuôi dưỡng và cách ly tôm bố mẹ nhập khẩu.
Ông Lê Văn Quê, Chủ tịch Hiệp hội, cho biết trước đây, theo Thông tư 09/2016/TT-BNNPTNT, giấy chứng nhận đủ điều kiện được cấp có thời hạn ba năm, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong kế hoạch sản xuất. Tuy nhiên, quy định hiện nay đã thay đổi, việc cấp phép được thực hiện bằng biên bản kiểm tra cho từng lô hàng, với thời hạn chỉ ba tháng.
“Quy định này khiến doanh nghiệp bị động, tốn kém rất lớn về thời gian và chi phí, đồng thời làm gián đoạn nguồn cung tôm bố mẹ sạch bệnh”, ông Quê nhấn mạnh.
Ông cũng cho rằng, những bất cập này cho thấy mô hình phát triển dựa trên tăng trưởng số lượng đã đến giới hạn. “Đã đến lúc ngành tôm cần chuyển sang mô hình phát triển dựa trên chất lượng, công nghệ và liên kết chuỗi giá trị”, ông Lê Văn Quê nhận định.
Tiếp nối ý kiến của Hiệp hội, đại diện khối doanh nghiệp cũng bày tỏ nhiều trăn trở. Ông Nguyễn Hoàng Anh, Chủ tịch Tập đoàn Nam Miền Trung, cho biết hiện nay nhiều cơ sở sản xuất của doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động do những vướng mắc về chính sách và điều kiện sản xuất. “Nếu các doanh nghiệp lớn trong ngành còn ‘gãy cánh’, thì tương lai ngành tôm sẽ đi về đâu? Đây là câu hỏi cần được trả lời bằng chính sách và hành động cụ thể”, ông nhấn mạnh.
Theo ông Nguyễn Hoàng Anh, các doanh nghiệp trong ngành tôm vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận chính sách, chưa được hưởng các cơ chế hỗ trợ phù hợp. “Nhiều chủ trương rất hay nhưng chưa thực sự đến được với doanh nghiệp, dẫn đến sự thiếu đồng bộ giữa quy hoạch, sản xuất và thị trường”, ông nêu rõ.
Từ thực tế đó, ông kiến nghị Bộ NN&MT nên đề xuất Chính phủ đặt ra các mục tiêu cụ thể cho ngành tôm, chẳng hạn như giá trị xuất khẩu hoặc sản lượng con giống theo từng giai đoạn 5 năm, 10 năm. Trên cơ sở đó, cần xây dựng đề án quy hoạch tổng thể, xác định rõ từng mắt xích trong chuỗi giá trị, đồng thời lựa chọn các doanh nghiệp đầu tàu có năng lực và uy tín để giao nhiệm vụ, hỗ trợ phát triển theo mô hình liên kết Nhà nước – doanh nghiệp – người dân.
“Ngành tôm Việt Nam đang ở giai đoạn rất nhạy cảm. Nếu không tái cấu trúc và đổi mới chính sách, nguy cơ suy giảm là có thật. Nhưng nếu dám nhìn nhận và hành động kịp thời, ngành tôm hoàn toàn có thể bứt phá, trở thành niềm tự hào quốc gia”, ông Nguyễn Hoàng Anh khẳng định.
Đã đến lúc phải thay đổi
Trước những nút thắt hiện có, Hiệp hội Giống Thủy sản Ninh Thuận – Khánh Hòa đã đưa ra loạt đề xuất cụ thể nhằm tháo gỡ vướng mắc chính sách và thúc đẩy ngành giống phát triển bền vững.
Theo Hiệp hội, vấn đề cấp bách nhất hiện nay là thủ tục cấp điều kiện cho khu nuôi dưỡng, cách ly tôm bố mẹ nhập khẩu. Hiệp hội đề nghị Bộ NN&MT chỉ đạo Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho phép các cơ sở uy tín được khôi phục cơ chế cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện có hiệu lực dài hạn, thay vì phải xin phép cho từng lô hàng như hiện nay, gây tốn kém và gián đoạn sản xuất.
Bên cạnh đó, Hiệp hội kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xây dựng gói “tín dụng xanh” ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao, kinh tế tuần hoàn; các địa phương quy hoạch vùng sản xuất giống tập trung với chính sách ưu đãi đất đai, mặt nước để thu hút đầu tư. Đồng thời, cần tăng cường chế tài xử phạt hành vi sản xuất, kinh doanh giống kém chất lượng để bảo vệ thị trường.
Về khoa học – công nghệ, Hiệp hội đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Bộ NN&MT đặt hàng các đề tài chọn tạo tôm bố mẹ kháng bệnh, thích ứng biến đổi khí hậu, giao Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản chủ trì.
Đối với công tác quản lý, cần sớm có hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, quy trình phối hợp giữa các cấp, đồng thời tăng cường tập huấn cho cán bộ cơ sở để chính sách đi vào thực tiễn.
Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến ghi nhận các kiến nghị, đồng thời đề nghị các địa phương tiếp tục hoàn thiện chính sách, phổ biến quy định mới về quản lý giống thủy sản; khuyến khích đầu tư công nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lượng và đẩy mạnh liên kết sản xuất, phát triển thị trường ổn định cho ngành tôm Việt Nam.
Nếu những kiến nghị và giải pháp nêu trên được triển khai đồng bộ, ngành tôm Việt Nam hoàn toàn có thể bước sang giai đoạn phát triển mới, tự chủ hơn về nguồn giống, minh bạch hơn về thị trường và bền vững hơn trong chuỗi giá trị. Đây cũng là nền tảng quan trọng để ngành tôm tiếp tục giữ vững vị thế chủ lực của thủy sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Phạm Huệ
ÔNG LÊ VĂN QUÊ, CHỦ TỊCH HIỆP HỘI GIỐNG THỦY SẢN NINH THUẬN – KHÁNH HÒA:
Đề xuất định hướng chiến lược: “Xây dựng hệ sinh thái tôm giống bền vững dựa trên ba trụ cột: Kinh tế Xanh – Kinh tế Tuần hoàn – Chuyển đổi số”

Trụ cột 1: Kinh tế Xanh – Nâng tầm thương hiệu bằng chất lượng vượt trội: Chúng tôi sẽ kiến tạo con giống không chỉ sạch bệnh mà còn có “thương hiệu xanh”, tiên phong xây dựng bộ tiêu chí “Giống sạch chuẩn hóa” và phát triển thương hiệu chứng nhận “Thương hiệu tôm giống Ninh Thuận” đã được cục sở hữu trí tuệ chứng nhận.
Trụ cột 2: Kinh tế Tuần hoàn – Tối ưu hóa nguồn lực, giảm thiểu chi phí: Chúng tôi sẽ khuyến khích đầu tư công nghệ tuần hoàn nước (RAS), năng lượng tái tạo (điện mặt trời) và các mô hình biến chất thải thành tài nguyên.
Trụ cột 3: Chuyển đổi số – Minh bạch hóa chuỗi cung ứng, nâng cao quản trị: Chúng tôi sẽ xây dựng Cơ sở dữ liệu chung của Hiệp hội và triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng Blockchain/QR Code, giúp người nuôi truy cập toàn bộ “nhật ký điện tử” của lô giống.
P.V (ghi)
- Đồng Tháp: Khuyến khích đầu tư, thu hút doanh nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản
- Diễn biến giá thức ăn thủy sản năm 2025: Xu hướng giảm nhẹ, sản xuất duy trì ổn định
- Những bí quyết cải thiện quản lý ao và thức ăn tôm
- Chuyển đổi số: Đổi mới quản lý trong nuôi tôm
- Anh Nguyễn Thanh Thể (TP. HCM): Hành trình kiên trì với con tôm
- Tôm sú Ấn Độ: Tăng tốc với nguồn giống SPF và triển vọng xuất khẩu
- Tôm giống Khánh Hòa: Hướng tới chuẩn mực chất lượng và an toàn dịch bệnh
- Quảng Trị: Nuôi tôm càng xanh, hướng đi mới giúp nông dân thu lãi
- Việt Nam làm chủ đàn tôm sú giống hạt nhân thế hệ G7
- Thị trường nội địa: Đích đến chiến lược của tôm Việt
Tin mới nhất
T7,22/11/2025
- Ngành tôm giống: Tăng trưởng số lượng đã tới hạn
- Vùng nuôi tôm hùm lớn nhất cả nước ‘trắng tay’ sau lũ
- Đồng Tháp: Khuyến khích đầu tư, thu hút doanh nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản
- Diễn biến giá thức ăn thủy sản năm 2025: Xu hướng giảm nhẹ, sản xuất duy trì ổn định
- Những bí quyết cải thiện quản lý ao và thức ăn tôm
- Chuyển đổi số: Đổi mới quản lý trong nuôi tôm
- Anh Nguyễn Thanh Thể (TP. HCM): Hành trình kiên trì với con tôm
- Xuất khẩu tôm Việt Nam lập đỉnh trong tháng 10, đạt gần 500 triệu USD
- Nguy cơ thương hiệu tôm giống Lâm Đồng bị xóa sổ
- Quảng Trị: Hiệu quả vượt trội từ mô hình nuôi tôm sú 2 giai đoạn
- Con tôm sú thế hệ mới là thứ tôm gì mà ở Cần Thơ “nghe tên mà ham”, nhà nào nuôi là trúng?
- Ngành tôm miền Bắc: Nuôi bài bản, đẩy lùi rào cản
- Nông dân đổi đời nhờ mô hình canh tác hiện đại
- Trí tuệ nhân tạo (AI): Mở lối nghề nuôi trồng thuỷ sản thông minh
- Thực tiễn sản xuất tôm: Câu chuyện về giống nội địa và ngoại nhập
- Chứng nhận ASC: Cơ hội nâng tầm thuỷ sản Việt Nam
- “Đôi bạn cùng tiến” có lợi cho nuôi tôm?
- Làm giàu từ nuôi tôm công nghệ cao
- Bình Định tăng cường quản lý hoạt động khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản
- Thủy sản Việt Nam tìm cách thoát ‘bẫy phụ thuộc’
- Xuất khẩu tôm: Cần xây dựng thương hiệu gắn với chất lượng
- Giá trị xuất khẩu thủy sản khởi sắc những tháng đầu năm
- Tăng cường kiểm soát thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu
- Đề xuất thành lập “nhóm đặc nhiệm” về thương mại nông sản Việt Nam – Singapore
- Hà Nội thúc đẩy phát triển nguồn lợi thủy sản
- Sản lượng thủy sản tháng đầu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Gần 500 hộ nuôi khẳng định hiệu quả Advance Pro – Tiến bộ kỹ thuật của Grobest
- Người nuôi tôm phập phồng với “ngày nắng, đêm mưa”
- Động lực phát triển đột phá ngành thủy sản
- Công nghệ sinh học toàn diện: Giải pháp nuôi tôm thành công từ Tâm Việt
- Biện pháp kiểm soát khí độc Nitrite (NO2) trong mô hình nuôi tôm TLSS-547
- Ngành chức năng và nông dân Quảng Nam cùng gỡ khó cho nuôi tôm nước lợ
- Thời tiết bất lợi gây thiệt hại hơn 27 triệu con tôm sú, tôm thẻ nuôi
- [Tuyển dụng] – Công ty TNHH Seven Hills Trading tuyển dụng nhiều vị trí hấp dẫn trong năm 2025
- Nhiều diện tích tôm nuôi của Nghệ An bị bệnh đốm trắng
- Nuôi tôm càng xanh VietGAP: Giảm chi phí, tăng lợi nhuận
- An toàn sinh học: Giải pháp then chốt cho bài toán dịch bệnh thủy sản
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân




















