Cần sự trợ lực từ nguồn vốn tín dụng

Với lợi thế về khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ; có thể nuôi tôm với mật độ cao, quản lý tốt các yếu tố đầu vào, đầu ra trong quá trình nuôi… mô hình nuôi tôm công nghệ cao gần như đáp ứng đầy đủ các tiêu chí kỳ vọng của người nuôi tôm là: năng suất cao, nuôi được nhiều vụ trong năm, hiệu quả kinh tế cao, tôm đạt chuẩn quốc tế, nghề nuôi thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, mô hình này hiện chỉ mới chiếm một diện tích khá khiêm tốn do phần lớn người nuôi chưa đủ điều kiện để áp dụng.

Mô hình nuôi tôm công nghệ cao rất cần có sự trợ lực từ chính sách tín dụng. Ảnh: TÍCH CHU

 

Với ưu thế trên, những năm gần đây, hầu hết các doanh nghiệp và trang trại quy mô lớn đều đầu tư nâng cấp lên mô hình nuôi tôm công nghệ cao. Nếu như trước đây, việc nâng cấp lên mô hình nuôi tôm công nghệ cao đòi hỏi người nuôi phải có diện tích lớn thì gần đây, kể cả hộ nuôi quy mô chỉ 1ha cũng có thể nuôi tôm theo mô hình này. Đây được xem là nỗ lực của các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào trong việc đưa mô hình nuôi tôm công nghệ cao đến với mọi người nuôi tôm. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, qua thống kê của các tỉnh nuôi tôm khu vực đồng bằng sông Cửu Long thì số diện tích nuôi tôm công nghệ cao của mỗi tỉnh vẫn còn khá thấp so với kỳ vọng. Ngay như tỉnh Bạc Liêu, nơi đang phấn đấu trở thành thủ phủ của ngành tôm Việt Nam, dù đã đầu tư cả một khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao dành riêng cho nuôi tôm nhưng số diện tích nuôi theo mô hình này cũng chưa đến 7.000ha.

Đây là điều không quá bất ngờ, bởi muốn chuyển sang nuôi theo mô hình này, đòi hỏi cần có sự đồng bộ của rất nhiều yếu tố, từ quy hoạch vùng nuôi, đến đầu tư cơ sở hạ tầng (thủy lợi, điện, giao thông); từ công tác quản lý chất lượng, giá cả vật tư đầu vào (con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học…) đến tổ chức sản xuất, bảo vệ môi trường và đặc biệt là vấn đề vốn đầu tư. Theo ước tính, để nâng cấp từ mô hình nuôi truyền thống sang nuôi ao lót bạt mật độ cao, người nuôi cần có ít nhất là 1 tỷ đồng cho mỗi héc ta. Trong đó, chỉ riêng chi phí đầu tư cho vụ nuôi đầu tiên (con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, điện, nhân công…) ít gì cũng 200 – 500 triệu đồng.

Có thể nói, nguồn vốn chính là rào cản lớn nhất ngăn chặn sự phát triển của mô hình nuôi tôm công nghệ cao do phần lớn người nuôi tôm thiếu vốn, nhưng lại khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng do không đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn. Về vấn đề này, ông Lê Văn Quang – Chủ tịch Công ty Cổ phần Tập đoàn thủy sản Minh Phú cũng kêu khó trong việc vay vốn tín dụng để nuôi tôm. Ông Quang phản ánh: “Do tỷ lệ nuôi tôm thành công ở mức quá thấp nên ngay cả vùng nuôi của Minh Phú dù được tập đoàn bảo lãnh nhưng ngân hàng vẫn không dám cho vay”.

Có thể nói, mục tiêu phát triển mô hình nuôi tôm công nghệ cao của các tỉnh nuôi tôm trọng điểm ở đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn. Ngay cả các tỉnh có diện tích nuôi tôm không quá lớn như: Bến Tre hay Trà Vinh cũng đều nhận thấy việc phát triển mô hình nuôi tôm công nghệ cao là xu thế tất yếu, không chỉ giúp gia tăng sản lượng, mà còn giúp nâng cao chất lượng, giảm giá thành và đáp ứng các tiêu chí về sản xuất xanh. Điều này là hợp lý, bởi theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Hòa – Giám đốc Kỹ thuật toàn cầu ngành hàng Empyreal & Motiv Cargill Inc: “Do quy mô diện tích hộ nuôi nhỏ, nên chúng ta không thể nuôi mật độ thưa như Ecuador vì như thế lợi nhuận không đủ đáp ứng nhu cầu đời sống hằng ngày của hộ nuôi. Do đó, giải pháp tốt nhất vẫn là đeo đuổi mô hình nuôi tôm mật độ cao, trong đó, nuôi tôm công nghệ cao là mô hình có nhiều ưu thế nhất”.

Cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, mô hình nuôi tôm công nghệ cao hiện nay là không thiếu, nếu không muốn nói là khá đa dạng, phong phú và đã được chứng minh tính hiệu quả qua thực tế triển khai tại các vùng nuôi. Cái thiếu còn lại của người nuôi muốn chuyển sang nuôi công nghệ cao phần lớn rơi vào nguồn vốn, khi hầu hết các ngân hàng đều rất thận trọng trong việc đầu tư cho nuôi tôm, do rủi ro thì lớn, nhưng lại chưa có bảo hiểm đi kèm. Theo tìm hiểu của người viết, ngoài các trang trại lớn và vùng nuôi tôm của doanh nghiệp, hiện hầu hết các mô hình nuôi tôm công nghệ cao quy mô nhỏ và vừa đều sử dụng nguồn vốn từ các đại lý cung ứng vật tư đầu vào. Tuy nhiên, kể từ sau dịch Covid-19 đến nay, nguồn vốn này cũng bị thu hẹp dần do việc thu hồi vốn đầu tư của đại lý quá khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do giá tôm giảm mạnh. Do đó, để nhân rộng và phát triển mô hình nuôi công nghệ cao rất cần có sự hỗ trợ đủ mạnh từ chính sách tín dụng.

Việc tìm vốn cho nuôi tôm công nghệ cao vẫn còn là vấn đề nan giải, nhưng không phải là không có cách. Đơn cử như cách làm của ngân hàng thương mại như HDBank khi họ phối hợp cùng đại lý của Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam và địa phương đầu tư cho người nuôi mang lại hiệu quả khá cao. Từ cách làm trên cho thấy, có thể tìm nguồn vốn cho mô hình trên thông qua việc hướng họ tham gia vào chuỗi liên kết mới với sự tham gia của các mắt xích khác trong chuỗi giá trị con tôm, như: thức ăn, chế phẩm nuôi, thương lái và không thể không có vai trò hỗ trợ kịp thời của Chính phủ và các bộ, ngành liên quan trong việc đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng vùng nuôi và nhất là ban hành cơ chế chính sách tín dụng mang tính đặc thù cho nghề nuôi.

Dù còn nhiều rủi ro, rào cản nhất định, nhưng trước xu thế phát triển của ngành tôm cùng sự nỗ lực của các cấp, các ngành và người nuôi tôm, hy vọng tới đây, mô hình nuôi tôm công nghệ cao sẽ có sự phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế và sự kỳ vọng để góp phần nâng cao tính cạnh tranh và giữ vững vị thế của ngành tôm Việt Nam trên thị trường thế giới.

Tích Chu

Nguồn: Báo Sóc Trăng

Tin mới nhất

T5,21/11/2024