Protein lên men từ ngô: Nguyên liệu tiềm năng cho thức ăn tôm

[Người Nuôi Tôm] – Với hàm lượng protein cao, cấu trúc axit amin cải thiện và khả năng sản xuất quy mô lớn, Protein lên men từ ngô được xem là giải pháp thay thế kinh tế, góp phần giảm phụ thuộc vào bột cá và các nguyên liệu đắt tiền khác.

Protein lên men từ ngô được xem là giải pháp đạm thay thế hiệu quả cho thức ăn tôm, giảm phụ thuộc bột cá (Ảnh: ST)

 

Protein lên men từ ngô là sản phẩm thức ăn chăn nuôi mới được phát triển từ ngành công nghiệp ethanol nhiên liệu tại Bắc Mỹ. Trước đây, quá trình sản xuất ethanol từ ngô chủ yếu tạo ra phụ phẩm là ngũ cốc khô chưng cất và dầu ngô. Tuy nhiên, hơn 10 năm trước, các nhà sản xuất ethanol ở Hoa Kỳ bắt đầu tách protein dư thừa ra khỏi chất xơ để tạo ra nguồn nguyên liệu giàu protein hơn. Thuật ngữ protein ngô lên men hay CFP được sử dụng cho các sản phẩm ngũ cốc chưng cất có hàm lượng protein từ 48% trở lên, phù hợp với định nghĩa thành phần thức ăn chăn nuôi của AAFCO.

Hàm lượng protein của các sản phẩm trong nhóm này dao động từ 26% đến hơn 60%. So với DDGS truyền thống, CFP chứa 20 – 24% men không hoạt động, cao hơn đáng kể nhờ công nghệ tách xơ giúp men được cô đặc cùng protein. Hàm lượng men cao mang lại cấu trúc axit amin ưu việt, với lysine, tryptophan và arginine cao hơn bột gluten ngô dù chỉ chứa khoảng 50% protein và không có yếu tố kháng dinh dưỡng như bột đậu nành.

CFP cũng có tỷ lệ axit amin chứa lưu huỳnh (methionine, cysteine) cao hơn rõ rệt, nâng giá trị dinh dưỡng tổng thể. Nhờ các đặc điểm này, CFP được xem là nguồn protein thay thế tiềm năng trong nhiều công thức thức ăn thủy sản. Bên cạnh đó, sản lượng hơn một triệu tấn mỗi năm từ các nhà máy ethanol Bắc Mỹ giúp CFP có lợi thế về khả năng cung ứng ổn định và giá thành cạnh tranh.

Trong nuôi tôm thẻ chân trắng, CFP đã được thử nghiệm rộng rãi nhờ hàm lượng chất xơ thấp và giá trị protein cao. Các nghiên cứu trên nhiều loài thủy sản đã cho thấy CFP mang lại tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống tương đương hoặc tốt hơn khi thay thế những nguyên liệu truyền thống có giá thành cao. Nghiên cứu của Qui và cộng sự năm 2017 ghi nhận có thể sử dụng đến 30% CFP khi thay thế bột đậu nành và 18% khi kết hợp thay thế cả bột đậu nành và bột cá. Năm 2022, Nazeer và cộng sự đánh giá chế độ ăn có chứa 20% CFP và không ghi nhận sự khác biệt về tăng trưởng, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn hay tỷ lệ sống của tôm. Sản phẩm CFP dùng trong nghiên cứu có cấu trúc axit amin vượt trội so với bột gluten ngô và bột đậu nành, góp phần nâng cao hiệu quả dinh dưỡng.

Năm 2025, San Andres và cộng sự nghiên cứu việc thay thế kết hợp bột đậu nành và bột gluten ngô bằng 0 đến 20% CFP trong hệ thống bể nuôi và ao nuôi. Kết quả cho thấy không có khác biệt đáng kể về tăng trưởng, tỷ lệ sống, hệ số chuyển đổi thức ăn hay năng suất. Đáng chú ý, chi phí thức ăn trên mỗi kg tôm giảm rõ rệt ở mức bổ sung 20% CFP. Với nguồn cung ổn định, giá thành cạnh tranh và giá trị dinh dưỡng cao, CFP đang mở ra hướng đi mới cho ngành sản xuất thức ăn thủy sản trong bối cảnh nhu cầu tìm kiếm nguyên liệu thay thế ngày càng gia tăng.

Quỳnh Mai (Lược dịch)