Chuyển đổi số: Đổi mới quản lý trong nuôi tôm

[Người Nuôi Tôm] – Ngành tôm Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi số mạnh mẽ, hướng tới quản lý môi trường nuôi theo hướng chủ động và dựa trên dữ liệu. Ứng dụng công nghệ số trong quan trắc, cảnh báo và điều hành đang trở thành giải pháp chiến lược giúp ngành phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và rủi ro dịch bệnh.

Chuyển đổi số là cách quản lý môi trường chủ động (Ảnh: Trong Vespa)

 

Hướng đến tự động – chuẩn hóa – phân tích thông minh

Chất lượng môi trường vùng nuôi là yếu tố nền tảng quyết định thành công hay thất bại của mỗi vụ tôm. Mọi biến động nhỏ về nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan hay các hợp chất nitơ đều có thể gây stress cho tôm, làm suy giảm sức đề kháng và tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển. Do đó, quan trắc môi trường không chỉ là khâu kỹ thuật hỗ trợ, mà là công cụ quản lý cốt lõi giúp kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn sinh học và phát triển bền vững. Triển khai tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đang tập trung xây dựng và vận hành hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường số hóa, kết nối dữ liệu từ địa phương đến Trung ương. Mục tiêu là hình thành mạng lưới giám sát tự động, phục vụ dự báo và cảnh báo sớm các biến động môi trường vùng nuôi tôm nước lợ.

Tại Hội thảo “Giải pháp quản lý môi trường nhằm phát triển ngành tôm nước lợ”, bà Nguyễn Thanh Trúc, Trung tâm Quan trắc Môi trường & Bệnh thủy sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản, cho biết mạng lưới quan trắc môi trường phục vụ nuôi trồng thủy sản hiện đã được thiết lập khá rộng, với 969 điểm tại 55 tỉnh, trong đó 453 điểm dành riêng cho vùng nuôi tôm nước lợ. Riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có 146 điểm quan trắc đang hoạt động. Tuy nhiên, phần lớn các điểm đo vẫn thực hiện thủ công, dữ liệu thu thập rời rạc, thiếu chuẩn hóa và chưa có hệ thống cảnh báo sớm. Một số mô hình ứng dụng IoT (Internet vạn vật) đã được triển khai ở quy mô nhỏ, nhưng chưa đủ sức bao phủ toàn vùng sản xuất. Đây là lý do khiến việc đổi mới phương thức quan trắc theo hướng tự động – chuẩn hóa – phân tích thông minh trở thành yêu cầu cấp thiết của ngành.

Theo định hướng mới, hệ thống quan trắc số hóa sẽ được xây dựng theo kiến trúc 4 tầng công nghệ: Cảm biến IoT: đo DO, pH, nhiệt độ, độ mặn…; Truyền dữ liệu: LoRa, NB- IoT, 4G; Xử lý dữ liệu: cloud/AI phân tích; Ứng dụng: dashboard, cảnh báo qua app. Theo bà Nguyễn Thanh Trúc, mục tiêu của đổi mới và chuyển đổi số trong quan trắc là tích hợp dữ liệu môi trường, vi sinh, khí tượng trên một nền tảng thống nhất, sử dụng AI để cảnh báo sớm và hỗ trợ ra quyết định chính xác hơn. Cách tiếp cận này giúp chuyển đổi toàn bộ quy trình từ “đo lường – dữ liệu – dự báo – hành động”, thay cho phương thức giám sát thủ công trước đây.

AI có thể phân tích xu hướng biến động DO, pH hay độ mặn, dự báo sớm các nguy cơ dịch bệnh như EHP hoặc Vibrio, dựa trên mối liên hệ giữa dữ liệu môi trường và vi sinh. Khi phát hiện rủi ro, hệ thống tự động gửi cảnh báo đến người nuôi, giúp họ chủ động điều chỉnh quy trình vận hành ao nuôi. “AI không thay người nuôi, mà giúp họ ra quyết định đúng thời điểm”, bà Trúc nhấn mạnh.

 

RAS: Hạt nhân trong đổi mới sáng tạo

Cùng với quá trình chuyển đổi số, đổi mới công nghệ trong nuôi tôm đang diễn ra mạnh mẽ trên cả nước. Một trong những hướng đi được đánh giá là “hạt nhân của đổi mới sáng tạo” chính là hệ thống nuôi tuần hoàn khép kín (RAS – Recirculating Aquaculture System). Hiện nay, Việt Nam đang triển khai Dự án “Cải thiện hệ thống tuần hoàn nước phục vụ nuôi trồng thủy sản bền vững (i4Ag)” do Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Đức (BMZ) tài trợ, thực hiện tại Sóc Trăng, Cà Mau và Hà Nội trong giai đoạn 2024 – 2026. Dự án hướng đến nâng cao chất lượng nước, tăng năng suất, giảm ô nhiễm và phát thải trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tôm nước lợ. Một trọng tâm lớn của dự án là thử nghiệm và nhân rộng mô hình RAS, vốn có khả năng tái sử dụng đến 90 – 95% lượng nước, giúp kiểm soát dịch bệnh, giảm chi phí vận hành và tối ưu hóa hiệu quả sản xuất.

TS. Trần Ngọc Hải, Phó Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ, cho biết: “Công nghệ tuần hoàn không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là nền tảng đổi mới toàn diện hướng tới nuôi tôm thân thiện môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu”. Đại học Cần Thơ là đơn vị tiên phong trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ RAS phù hợp với điều kiện vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thông qua các đề tài hợp tác quốc tế (với CSIRO – Úc, GIZ, JICA) và doanh nghiệp trong nước như Hoàn Cầu, De Heus, Agritree,…

Các nghiên cứu tại đây đã kết hợp hai hướng công nghệ chính: Hệ thống tuần hoàn không hoàn toàn kết hợp đa loài (IMTA – RAS), kết hợp nuôi tôm với cá, nhuyễn thể, rong nhằm tận dụng chuỗi xử lý sinh học tự nhiên, giúp tiết kiệm chi phí và tạo thêm sản phẩm phụ. Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi diện tích lớn, chưa thể kiểm soát môi trường tuyệt đối và vẫn cần thay nước định kỳ; Hệ thống tuần hoàn kín hoàn toàn trong nhà (RAS hiện đại), sử dụng hệ thống lọc cơ học, sinh học tiên tiến, vận hành trong nhà, kiểm soát hoàn toàn các yếu tố môi trường và tự động hóa quá trình nuôi. Dù chi phí đầu tư cao, nhưng đây là hướng phát triển tất yếu cho nuôi thâm canh và siêu thâm canh thân thiện môi trường.

Từ năm 2018, nhóm nghiên cứu của Đại học Cần Thơ đã phát triển mô hình CTU-RAS, hệ thống tuần hoàn hoàn chỉnh, không thay nước trong suốt vụ nuôi, chỉ bổ sung 10 – 20% lượng nước và có thể tái sử dụng liên tục cho 3 vụ/năm. Hệ thống được thiết kế theo nguyên lý cân bằng sinh học, bao gồm: Khu nuôi tôm chính (chiếm 70 – 75% diện tích): tôm là đối tượng sản xuất chính, thải ra chất hữu cơ và amoni; Khu lọc sinh học (25 – 30% diện tích): gồm cá rô phi xử lý chất lơ lửng, giá thể sinh học chuyển hóa amoni, nitrit, nitrat và rong câu hấp thu các hợp chất nitơ, phốt pho dư thừa.

Kết quả thực nghiệm cho thấy CTU-RAS mang lại hiệu quả cao về kỹ thuật, kinh tế và môi trường: Giảm ô nhiễm và bảo vệ môi trường; an toàn sinh học cao; giảm lượng thức ăn, khoáng và hóa chất nhờ sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên bổ sung như bí đỏ (thay thế 10 – 20% thức ăn viên, FCR chỉ 0.3 – 0.4); thích ứng tốt với biến đổi khí hậu: có thể vận hành ở cả vùng ven biển lẫn vùng nội địa đô thị, cung cấp tôm sạch, tươi sống cho thị trường; dễ dàng tích hợp công nghệ thông minh. Tính đến nay, mô hình CTU-RAS đã được triển khai tại Sóc Trăng, Cà Mau với mật độ 300 con/m³, diện tích lọc chiếm 25% tổng thể tích. Đồng thời, Đại học Cần Thơ đã tổ chức hơn 10 khóa tập huấn “Người nuôi tôm chuyên nghiệp”, đào tạo hàng trăm nông dân, kỹ sư trẻ và sinh viên; góp phần lan tỏa công nghệ này vào thực tiễn sản xuất.

 

Máy cho ăn tự động giúp kiểm soát tốt lượng thức ăn trong ao tôm 

 

Tam giác bền vững cho ngành tôm Việt Nam

Vấn đề môi trường đã trở thành mấu chốt quyết định khả năng cạnh tranh và giá trị dài hạn của chuỗi ngành hàng. Tuy nhiên, chỉ khi hình thành được “tam giác hợp tác bền vững” giữa Nhà nước – doanh nghiệp – người nuôi, ngành tôm mới có thể vượt qua được thách thức kép về hiệu quả sản xuất và bảo vệ hệ sinh thái. Do đó, mô hình hợp tác công – tư trong lĩnh vực môi trường thủy sản được xem là một hướng đi tất yếu, bởi không một bên nào có thể đơn độc giải quyết bài toán ô nhiễm, dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Khi Nhà nước giữ vai trò đầu tàu, doanh nghiệp đầu tư công nghệ và hạ tầng sản xuất, còn người nuôi tham gia theo chuỗi giá trị, mỗi mắt xích đều được gắn kết trong một hệ sinh thái sản xuất tuần hoàn, minh bạch và có trách nhiệm.

Phó Cục trưởng Phạm Quang Toản khẳng định, Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ tiếp tục đồng hành cùng địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế trong tiến trình chuyển đổi xanh ngành thủy sản. Theo ông, Cục tập trung vào bốn hướng chính: hoàn thiện khung chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật cho quản lý môi trường vùng nuôi; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ xanh như RAS, IMTA; phát triển hạ tầng số và cơ sở dữ liệu mở phục vụ phân tích bằng AI; đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu và nâng cao năng lực quản lý môi trường.

Mạng lưới này sẽ là động lực thực thi Nghị quyết. Trong tầm nhìn đó, môi trường không còn là “nền tảng bị động” của sản xuất, mà là nguồn tài sản cần được đầu tư, bảo vệ và khai thác bền vững, nơi công nghệ, chính sách và con người cùng hội tụ để kiến tạo tương lai bền vững.

Phương Nhung

“Ngành tôm nước lợ đã, đang và sẽ tiếp tục là ngành hàng chiến lược của Việt Nam, đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu và sinh kế của hàng triệu hộ dân vùng ven biển. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh về quy mô và cường độ trong nhiều năm qua cũng khiến ngành đối mặt với thách thức môi trường nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo được xem là yếu tố then chốt để ngành tôm Việt Nam phát triển xanh, tuần hoàn và phát thải thấp, phù hợp tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/7/2024 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển bền vững đất nước đến năm 2045”.

Ông Phạm Quang Toản

Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư

Tin mới nhất

T6,21/11/2025