Nấm đồng tiền là gì?
Nấm đồng tiền (NĐT) là tên thường gọi chỉ những mảng bám trên bề mặt các giá thể ao nuôi tôm sau khi thả nuôi một khoảng thời gian. NĐT thường có cấu trúc hình tròn, hình chân chó, màu sắc khác nhau và có mùi tanh đặc trưng. NĐT thực chất không phải là một loài nấm mà là một phức hợp cộng sinh với nhau giữa địa y, nấm và tảo bám. Thành phần của NĐT đến nay vẫn chưa được làm rõ và còn nhiều tranh cãi. Đa số các tài liệu cho rằng NĐT hình thành trong ao ban đầu là những lớp nhớt bạt (Biofilm), từ đó các vi khuẩn tự dưỡng, dị dưỡng, nguyên sinh động vật, nấm và tảo bám kí sinh tạo thành bộ khung polysaccaride chắc chắn bám chặt vào bề mặt giá thể. Ortiz-Estrada và cs (2019) cho biết có rất nhiều loài vi khuẩn trong đó tập trung vào 8 bộ được phát hiện phổ biến nhất là: Rhizobiales, Clostridiales, Cytophagales, Actinomycetales, Vibrionales, Flavobacterales, Planctomycetales, Chlamydiales và Rhodobacterales. Bên cạnh đó nấm (mycobiont), vi sinh vật quang hợp (photobiont) cũng tham gia vào cấu trúc này. Mặc dù cách thức nhân lên của NĐT chưa được khẳng định, nhưng hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng chúng có thể sinh sản bằng bào tử. Các cá thể trưởng thành có thể phóng thích ra các bào tử có lớp vỏ bảo vệ rất bền vững, giúp chúng tồn tại trong những điều kiện môi trường khắc nghiệt. Khi gặp điều kiện thuận lợi chúng sẽ nảy mầm và nhân lên nhanh chóng. NĐT thường bắt đầu xuất hiện trong ao sau 2 tuần thả tôm và sẽ tăng dần đến cuối vụ nuôi do sự phong phú của các khoáng dinh dưỡng và chất thải hữu cơ.

Trong ao nuôi tôm nấm đồng tiền thường bị tái nhiễm dù đã điều trị đúng cách
Các ích lợi của màng sinh học
Việc hình thành các mảng bán Periphyton hay NĐT là diễn biến rất tự nhiên của hệ vi sinh giúp cho xử lý môi trường tốt và ổn định hơn, từ đó cải thiện sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm (Viau và cs, 2019). Sruthisree và cs (2015) cho rằng, nên đưa thêm các giá thể vào trong ao tôm để kích thích hình thành và phát triển các lớp màng sinh học này.
Thử nghiệm trong thực tế, các giá thể từ rơm và tre được đánh giá là tốt hơn cho sự hình thành NĐT hơn giá thể là các ống nhựa PVC và lá dừa. Kết quả nghiên cứu của Dam và cs (2002), Khatoon và cs (2007) cho thấy, periphyton tạo thành mảng bám sinh trưởng trên nền đáy và đóng vai trò là nguồn thức ăn tự nhiên cho động vật trong ao nuôi, bao gồm cả tôm. Đồng thời, các lớp Biofilm còn có thể cải thiện chất lượng nước khi chúng hấp thu các muối dinh dưỡng hoà tan được thải ra trong quá trình nuôi như PO43-, NH4+, NO3… Môi trường giàu dinh dưỡng, nhiệt độ và độ mặn thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của periphyton và màng sinh học trong ao nuôi tôm (Thompson và cs, 2002; Fahruddin và cs 2025). Nghiên cứu của Vinay và cs (2019) còn cho rằng, sức đề kháng của tôm sú có thể tăng lên rõ rệt sau khi ăn Biofilm có chứa vi khuẩn Vibrio harveyi. Nhìn chung, NĐT hay nhớt bạt Biofilm được nhiều ghi nhận có nhiều tác dụng tích cực như cải thiện tăng trưởng, môi trường ao nuôi tôm.

Mô tả các giai đoạn hình thàng màng sinh học vi khuẩn dưới kính hiển vi (Ảnh: Studfile.net)
Các tác hại của nấm đồng tiền
Bên cạnh các tác dụng hữu ích, cũng có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra việc gây hại của NĐT. Trong rất nhiều thành phần cấu tạo nên NĐT, có lẽ có những thành phần vi sinh vật hữu ích nhưng cũng có thể có những thành phần có khả năng gây độc cho tôm. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu chính thống nào chỉ ra chính xác thành phần gây hại đó là gì.
Các quan sát của người nuôi tôm cho thấy tôm rất thích ăn NĐT, có thể do tôm bị hấp dẫn bởi mùi tanh đặc trưng của chúng. Nhiều hệ thống nuôi ghi nhận sau khi ăn NĐT tôm có dấu hiệu bị rối loạn về tiêu hoá. Cụ thể, các lớp niêm mạc đường ruột có thể bị tổn thương, viêm loét gây ra tình trạng ruột đứt đoạn, xoắn ruột hoặc bệnh phân trắng và có thể bị tử vong. Khi bị nhiễm các độc tố của NĐT, gan tôm có thể bị teo, chai cứng hoặc sưng rồi vỡ. Gan tôm khi đó thường có màu sắc bất thường (nhợt nhạt, trắng đục, vàng nhạt). Khi bị nặng, hệ thống miễn dịch của tôm bị suy giảm nghiêm trọng và có thể dẫn đến các hội chứng chết sớm (EMS/AHPND) hoặc bệnh vi bào tử trùng (EHP)…
Một số nguồn xác định NĐT có thể sản sinh ra các độc tố như mycotoxin, gây tổn thương trực tiếp lên niêm mạc đường ruột và tế bào gan tụy của tôm. Nghiên cứu của Song và cs (2022) còn chỉ ra bằng chứng cho thấy nhiều loài nấm, vi sinh vật phân lập ở hệ tiêu hoá của tôm có mối quan hệ mật thiết với sự bùng phát của các bệnh gan tuỵ.
Kiểm soát nấm đồng tiền trong ao tôm
Do khả năng sinh sản mạnh mẽ và dễ dàng, nếu người nuôi dùng biện pháp chà, cọ rửa có thể khiến NĐT phát tán rộng hơn. Nếu dùng hoá chất diệt NĐT có thể làm chúng bong tróc khỏi lớp bạt, khiến tôm ăn vào nhiều hơn dẫn đến hệ luỵ lớn hơn. Hơn nữa, các hoá chất gây chết NĐT thường cũng khá độc đối với tôm. Vì thế, các biện pháp xử lý NĐT cần phải được cân nhắc rất cẩn thận.
Sử dụng hóa chất:
Cải tạo ao đầu vụ nuôi bằng cách sử dụng vôi nung (CaO) hòa với nước để tưới rồi quét khắp các bạt ao là một trong những cách đơn giản mà có nhiều tác dụng. Ngoài việc diệt khuẩn và NĐT thì vôi còn có tác dụng làm đệm pH khá tốt. Tuy nhiên, tác dụng của vôi không được lâu dài.
Sử dụng đồng nano kết hợp với các phụ gia làm gia tăng khả năng bám dính để xịt lên bạt và dụng cụ nuôi có thể hạn chế đáng kể các sinh vật bám. Các ao nuôi sử dụng giải pháp này cho thấy khả năng phòng NĐT khả thi trong khoảng 35 – 40 ngày đầu tiên. Tuy nhiên, sản phẩm này thường có giá thành cao và sau khoảng 40 ngày khi NĐT phát triển vẫn phải sử dụng các biện pháp khác để xử lý. Bên cạnh đó, sử dụng đồng hữu cơ được cho là an toàn và hiệu quả hơn đồng sulphate vô cơ, có thể sử dụng cho tôm nhỏ hơn, nhưng có giá thành lại khá đắt.
Bronopol và các dẫn xuất cũng được đánh giá là những hoá chất đặc trị nấm và an toàn do ít độc đối với tôm và môi trường. Tuy nhiên, tác dụng của Bronopol với NĐT thường không mạnh và tức thì nên cũng chưa được đánh giá cao.
Sử dụng vi sinh vật:
Việc đưa vào ao nuôi các vi sinh vật đối kháng, vi sinh vật cạnh tranh nhằm phân giải các chất thải hữu cơ, hạn chế nguồn dinh dưỡng cho NĐT phát triển cũng là giải pháp sinh học và an toàn. Nhiều nông dân có kinh nghiệm dùng men rượu (Saccharomyces sp) ủ cùng với vi sinh EM cho xuống ao cũng có thể giảm đáng kể sự phát triển của NĐT. Tuy nhiên, giải pháp này thì khó diệt NĐT một cách triệt để khi chúng đã bùng phát. Bên cạnh đó, bổ sung tảo cũng hạn chế đáng kể NĐT do chúng bị cạnh tranh dinh dưỡng. Tuy nhiên, người dân lại phải có kĩ năng khéo léo để kiểm soát sự bùng phát của tảo. Ngoài các men vi sinh ức chế và cạnh tranh dinh dưỡng với NĐT, các sản phẩm xử lý thường có thêm một số loại emzyme giúp phân giải nhanh chóng NĐT trước khi bị tôm ăn.
Sử dụng các sản phẩm hỗ trợ khác:
Việc bổ sung cho tôm ăn các sản phẩm có khả năng hấp phụ độc tố trong đường tiêu hoá. Các sản phẩm này có khả năng gây bất hoạt các độc tố do NĐT sản sinh ra, chuyển chúng sang dạng không độc hoặc ít độc để giúp tôm khoẻ hơn và hạn chế các tác hại gây ra bởi NĐT. Bên cạnh đó, việc sử dụng một số chất chiết thảo dược cũng đã chứng minh khả năng làm tăng sức đề kháng và cải thiện rõ rệt tỷ lệ sống cũng như năng suất tôm nuôi.
TS. Nguyễn Ngọc Tuấn
Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
- Đắk Lắk: Bão số 13 gây thiệt hại hơn 20 tỷ đồng cho người nuôi tôm
- Ngành khuyến nông tìm giải pháp nhân rộng mô hình nuôi tôm sinh thái, thuận thiên
- Nước ao tôm trong vắt bất ngờ: Nguyên nhân và giải pháp
- Cà Mau phát triển ngành tôm theo hướng bền vững, công nghệ cao
- Quảng Ninh: Thành công nhờ bén duyên tôm sú
- Xuất khẩu tôm Việt Nam phục hồi trong tháng 10/2025
- Hệ thống xã hội – sinh thái (SES) trong nuôi tôm ở Đông Nam Á
- Tôm Việt Nam vẫn duy trì xuất khẩu dù chịu áp lực thuế quan từ Mỹ
- An Giang: Hợp tác xã tôm – lúa Vĩnh Bình trên đà phát triển
- Ecuador lộ rõ giới hạn sản xuất qua dữ liệu xuất khẩu tôm tháng 9/2025
Tin mới nhất
T3,11/11/2025
- Nấm đồng tiền: Nguyên nhân tái nhiễm dù đã điều trị đúng cách
- Đắk Lắk: Bão số 13 gây thiệt hại hơn 20 tỷ đồng cho người nuôi tôm
- Ngành khuyến nông tìm giải pháp nhân rộng mô hình nuôi tôm sinh thái, thuận thiên
- Nước ao tôm trong vắt bất ngờ: Nguyên nhân và giải pháp
- Cà Mau phát triển ngành tôm theo hướng bền vững, công nghệ cao
- Quảng Ninh: Thành công nhờ bén duyên tôm sú
- Xuất khẩu tôm Việt Nam phục hồi trong tháng 10/2025
- Hệ thống xã hội – sinh thái (SES) trong nuôi tôm ở Đông Nam Á
- Tôm Việt Nam vẫn duy trì xuất khẩu dù chịu áp lực thuế quan từ Mỹ
- An Giang: Hợp tác xã tôm – lúa Vĩnh Bình trên đà phát triển
Các ấn phẩm đã xuất bản
- Gần 500 hộ nuôi khẳng định hiệu quả Advance Pro – Tiến bộ kỹ thuật của Grobest
- Người nuôi tôm phập phồng với “ngày nắng, đêm mưa”
- Động lực phát triển đột phá ngành thủy sản
- Công nghệ sinh học toàn diện: Giải pháp nuôi tôm thành công từ Tâm Việt
- Biện pháp kiểm soát khí độc Nitrite (NO2) trong mô hình nuôi tôm TLSS-547
- Ngành chức năng và nông dân Quảng Nam cùng gỡ khó cho nuôi tôm nước lợ
- Thời tiết bất lợi gây thiệt hại hơn 27 triệu con tôm sú, tôm thẻ nuôi
- [Tuyển dụng] – Công ty TNHH Seven Hills Trading tuyển dụng nhiều vị trí hấp dẫn trong năm 2025
- Nhiều diện tích tôm nuôi của Nghệ An bị bệnh đốm trắng
- Nuôi tôm càng xanh VietGAP: Giảm chi phí, tăng lợi nhuận
- An toàn sinh học: Giải pháp then chốt cho bài toán dịch bệnh thủy sản
- Sử dụng sóng siêu âm để tính sinh khối ao nuôi tôm
- Máy sưởi ngâm: Cách mạng hóa nghề nuôi tôm ở Việt Nam
- Waterco: Giải pháp thiết bị hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
- GROSHIELD: “Trợ thủ đắc lực” giúp tôm đề kháng vững vàng hàng ngày, sẵn sàng về đích
- Năm mới, nỗi lo cũ: “Làm sao để tăng cường đề kháng cho tôm?”
- Vi sinh: Giải pháp mục tiêu toàn diện
- Grobest Việt Nam: Tiên phong ra mắt sản phẩm thức ăn chức năng hàng ngày Groshield, nâng cao tối đa sức đề kháng, hướng đến những vụ tôm về đích thành công trong năm tới
- Solagron Vietnam: Nhà sản xuất vi tảo công nghiệp đầu tiên mang dấu ấn Việt Nam
- Giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản từ bột cá thủy phân




















