Taurine: Hỗ trợ giảm thời gian chờ sinh sản của tôm mẹ

[Người nuôi tôm] – Bổ sung 4 – 8 g taurine/kg thức ăn vào khẩu phần làm giảm thời gian chờ sinh sản, đồng thời cải thiện quá trình trưởng thành và sức khỏe của tôm mẹ thông qua việc điều chỉnh chuyển hóa lipid, khả năng chống oxy hóa và miễn dịch.

 

Nghiên cứu đã khảo sát tác động của taurine trong khẩu phần ăn đến sự trưởng thành buồng trứng và phản ứng sinh lý của P. vannamei cái. 180 tôm bố mẹ (29,4 g) được nuôi trong 18 bể 250 lít tại Đại học Vịnh Ba Tư để thử nghiệm ảnh hưởng của taurine trong khẩu phần ăn. Tôm được thuần hóa 2 tuần, nuôi trong nước biển UV khử trùng, nhiệt độ 28,9°C, thay nước 80%/ngày, sử dụng ánh sáng nhân tạo 12 giờ chiếu sáng và 12 giờ trong bóng tối. Khẩu phần thử nghiệm (497 g protein/kg, 140 g lipid/kg, 19.0 MJ/kg) được bổ sung taurine (0 – 10 g/kg) và cho ăn 5% sinh khối/ngày, 2 lần/ngày trong 30 ngày. Thức ăn tươi thông thường như mực và trùn huyết, có hàm lượng taurine cao, không được sử dụng.

Bổ sung taurine vào khẩu phần có thể tăng trọng lượng và hiệu quả sử dụng protein trong nuôi thương phẩm

 

Kết quả cho thấy, việc bổ sung taurine vào khẩu phần không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của P. vannamei cái, cho thấy trong giai đoạn thành thục, dinh dưỡng và năng lượng được ưu tiên cho phát triển sinh dục và hình thành giao tử thay vì tăng trưởng cơ thể. Các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng, bổ sung taurine ở mức 0,4 – 0,8 gram/ kg có thể tăng trọng lượng và hiệu quả sử dụng protein trong nuôi thương phẩm, trong khi 25 mg/kg giúp cải thiện tỷ lệ sống và lột xác trong giai đoạn ấu trùng.

Báo cáo của Shi et al. cho biết, bổ sung taurine ở mức 4g/ kg cải thiện tăng trưởng và sử dụng thức ăn ở P. vannamei khi thay thế bột cá bằng protein thực vật. Đồng thời, bổ sung taurine ở mức 5,7 – 6,6 g/kg sẽ tăng khả năng thích ứng nhiệt độ thấp ở P. vannamei. Nhu cầu taurine tối ưu phụ thuộc vào loài, di truyền, giai đoạn sống và điều kiện nuôi.

Taurine từ 4 – 8 g/kg thức ăn giúp cải thiện sự thành thục tôm mẹ P. vannamei, tăng lưu trữ taurine trong buồng trứng. Taurine từ 4 – 10 g/kg thức ăn giúp tăng chống oxy hóa, tiêu hóa lipid, hoạt động enzyme LIP. Taurine ở mức 10 g/kg giúp tăng DHA buồng trứng, có thể do cải thiện hấp thụ vitamin tan trong dầu. Tôm ăn taurine có cholesterol, HDL cao, huy động lipid từ gan tụy đến buồng trứng, tăng tổng hợp axit mật, hấp thụ cholesterol, hoạt động LIP, giữ DHA và phiên mã gen VIT.

Như vậy, việc bổ sung 4 – 8 g/kg taurine vào khẩu phần ăn đã giảm đáng kể thời gian chờ sinh sản ở tôm thẻ chân trắng mẹ. Mức DHA và taurine trong buồng trứng tăng lên khi hàm lượng taurine trong khẩu phần tăng, trong khi đó, protein tổng thể trong huyết tương, canxi, cholesterol và lipoprotein mật độ cao đều tăng khi bổ sung 6 – 10 g taurine/kg thức ăn vào khẩu phần. Mức độ phiên mã của vitellogenin và một số enzyme cũng được tăng cường trong tuyến tụy gan của tôm bố mẹ được cho ăn 6 – 10 g taurine/kg thức ăn. Nhìn chung, taurine ở mức 4 – 8 g/kg trong khẩu phần ăn có thể cải thiện quá trình trưởng thành và tình trạng sức khỏe của tôm bố mẹ P. vannamei thông qua việc điều chỉnh chuyển hóa lipid, khả năng chống oxy hóa và miễn dịch.

Hiểu Lam (Lược dịch)