Trà Vinh: Ưu tiên đầu tư hạ tầng, liên kết ở vùng nuôi tôm nước lợ

Với 65 km đường bờ biển, tỉnh Trà Vinh có nhiều tiềm năng và thế mạnh phát triển nghề nuôi trồng thủy sản; trong đó nuôi tôm nước lợ được xác định là ngành kinh tế quan trọng của địa phương.

 

Diện tích và sản lượng tôm nuôi nước lợ của Trà Vinh lớn thứ 6 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với trên 33.330 ha, sản lượng đạt hơn 94.000 tấn, giá trị sản xuất đạt trên 7.500 tỷ đồng. Hiện ngành nông nghiệp địa phương đang tập trung khắc phục những tồn tại, hạn chế để nghề nuôi tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh phát triển bền vững.

 

Nhiều thách thức

Ngành tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh được hình thành hơn 30 năm. Thời gian đầu chủ yếu phát triển nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến và bán thâm canh. Đến năm 2000, sau khi nhà nước có chính sách đầu tư  phát triển các trại sản xuất giống và nuôi thâm canh, cùng sự ra đời của mạng lưới hậu cần dịch vụ về giống, thức ăn, thuốc hoá chất, thu mua, chế biến,…thì hình thức nuôi thâm canh tôm sú bắt đầu phát triển mạnh. Tuy nhiên, hiện nghề nuôi tôm nước lợ ở Trà Vinh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tại các vùng nuôi tôm, hạ tầng chưa được đầu tư hoàn thiện; môi trường bị ô nhiễm do mức độ thâm canh hóa ngày càng cao; dịch bệnh phát sinh nhiều và thường xuyên, nhiều bệnh mới xuất hiện; nguồn tôm giống chất lượng sản xuất tại địa phương hạn chế…

Mô hình nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao của người dân thị xã Duyên Hải.

 

Ông Sơn Sâm Phone, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản, Kiểm ngư và Biển đảo (Sở Nông nghiệp và Môi trường Trà Vinh) cho rằng, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, xuất hiện nhiều hiện tượng như nước biển dâng; thời tiết, nhiệt độ, độ mặn trong nước thay đổi liên tục… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường nuôi. Trong khi đó, hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm  ở Trà Vinh chủ yếu  dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, vì vậy việc cấp thoát nước cũng không đảm bảo, các vùng nuôi thâm canh không có ao xử lý nước nên rất dễ xảy ra dịch bệnh.

Bên cạnh đó, địa phương thiếu trầm trọng nguồn tôm giống chất lượng tại chỗ.  Toàn tỉnh có 16 cơ sở giống chỉ cung ứng được khoảng 1 tỷ con giống, đáp ứng khoảng 20% nhu cầu nuôi tôm của người dân. Số lượng giống còn lại phải nhập từ các tỉnh như Ninh Thuận, Bình Thuận, Bạc Liêu… Việc sử dụng nguồn giống chưa đảm bảo chất lượng cũng làm giảm tỷ lệ sống của tôm nuôi. Giai đoạn 2020-2024, tổng diện tích nuôi tôm bị thiệt hại toàn tỉnh gần 9.000 ha, chiếm 5,6% diện tích thả nuôi. Tôm chết chủ yếu trong giai đoạn từ 3-50 ngày tuổi, với các bệnh như đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, đường ruột, phân trắng… Không chỉ vậy, giá thành sản xuất tôm nuôi ở Trà Vinh hiện nay khá cao.

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Trà Vinh Trần Trường Giang cho biết, so với các nước có lượng tôm  xuất khẩu lớn trên thế giới hiện nay,  thì chi phí sản xuất tôm nguyên liệu ở Trà Vinh khá cao do qua nhiều khâu trung gian. Phần lớn các hộ nuôi tôm ở địa phương sản xuất quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết sản xuất; trong đó nhiều hộ phải vay vốn để đầu tư sản xuất, khiến giá thành sản xuất bị “đẩy” lên. Điều này là giảm lợi nhuận của người nuôi tôm, tôm nguyên liệu của Trà Vinh khó cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.

Phát triển nghề bền vững

Theo kế hoạch, năm 2025, toàn tỉnh Trà Vinh thả nuôi 24.000 ha tôm sú, sản lượng đạt khoảng 10.500 tấn; 8.000 ha tôm thẻ chân trắng, sản lượng gần 90.000 tấn. Để đạt mục tiêu đề ra và phát triển bền vững ngành tôm nước lợ trong thời gian tới, Trà Vinh đang thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Theo đó, địa phương ưu tiên đầu tư hạ tầng thủy lợi, điện, giao thông vùng nuôi tôm trọng điểm; tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị ngành hàng, trong đó doanh nghiệp là mắt xích chủ yếu đóng vai trò dẫn dắt toàn chuỗi, liên kết bảo đảm hài hòa lợi ích với người nuôi. Tỉnh sẽ liên doanh, liên kết với các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh để mở rộng thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào ngành tôm nước lợ tỉnh Trà Vinh; hình thành và phát triển các vùng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao.

Địa phương đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn cho nuôi tôm nước lợ; nhân rộng mô hình mới, giải pháp, công nghệ nuôi thích ứng với điều kiện biến đổi thời tiết, nuôi tôm bằng nhiều hình thức như: chia giai đoạn, sử dụng chế phẩm sinh học, tuần hoàn khép kín, an toàn sinh học, công nghệ cao… và các mô hình liên kết sản xuất hiệu quả giúp người nuôi, doanh nghiệp giảm thiệt hại và chủ động sản xuất.

Tỉnh cũng chuyển giao, nâng cấp và áp dụng công nghệ tiên tiến trong sơ chế, bảo quản tôm nguyên liệu để nâng cao giá trị gia tăng, đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu của nước nhập khẩu; hỗ trợ  các trang trại, doanh nghiệp nuôi – chế biến tôm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thị trường, tiêu thụ sản phẩm tôm…

 

Bên cạnh đó, tỉnh tích cực kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xây dựng trại giống quy mô lớn đạt chuẩn, nuôi tôm công nghệ cao quy mô lớn, xây dựng các nhà máy chế biến tôm tại địa phương. Tỉnh tăng cường phối hợp các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chọn tạo giống tôm tăng trưởng nhanh, sạch bệnh để chủ động cung cấp cho vùng nuôi tôm.

Trà Vinh cũng tập trung giải pháp giảm thiểu dịch bệnh trên tôm nuôi. Mới đây, tại hội thảo về phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ được ngành nông nghiệp tổ chức tại huyện Duyên Hải, nhà khoa học đến từ các viện, trường đã hướng dẫn các hộ nuôi cách phòng, trị dịch bệnh phát sinh trên tôm nuôi; trong đó có nhiều bệnh mới xuất hiện thời gian gần đây.

Thời gian tới, ngành chuyên môn tăng cường quan trắc, cảnh báo môi trường nước để kịp thời khuyến cáo, cảnh báo người nuôi; hướng dẫn biện pháp phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt giải pháp kỹ thuật để giảm thiểu thiệt hại tôm nuôi.

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Trà Vinh Trần Trường Giang, để giảm giá thành sản xuất  tôm nguyên liệu ở Trà Vinh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường,  ngành nông nghiệp khuyến khích các hộ nuôi liên kết sản xuất, ký kết trực tiếp với doanh nghiệp không qua thương lái để giảm chi phí trung gian; tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết hình thành vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn gắn với tiêu chuẩn chứng nhận để nâng cao chất lượng tôm nguyên liệu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Gia đình ông Nguyễn Văn Út, xã Long Toàn, thị xã Duyên Hải trước đây nuôi tôm theo hình thức quảng canh, quảng canh cải tiến. Sau thời gian tích lũy được kinh nghiệm và được chuyển giao khoa học kỹ thuật, năm 2018 ông mạnh dạn đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng áp dụng công nghệ cao. Hiện gia đình ông có 8 ao nuôi trên diện tích 5 ha, mật độ thả trung bình là 250 con/m2

Để nghề nuôi ngày càng phát triển theo tiêu chí nuôi theo quy trình an toàn dịch bệnh và phong trào nuôi phát triển và bền vững, ông Út cho rằng, người nuôi phải kiểm soát tốt nguồn giống, nên sử dụng giống sạch bệnh hoặc đã được xét nghiệm âm tính với các bệnh nguy hiểm; kết hợp với áp dụng biện pháp an toàn sinh học tại cơ sở, tiến bộ kỹ thuật trong nuôi tôm để kiểm soát nguy cơ làm mầm bệnh xâm nhập. Các hộ nên liên kết, hình thành tổ hợp tác, hợp tác xã, câu lạc bộ,… để chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, dễ tiếp cận chính sách hỗ trợ và đối tác cung cấp vật tư đầu vào, tiêu thụ đầu ra.

Ông Nguyễn Văn Út đề xuất cơ quan chuyên môn tăng cường tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho các hộ nuôi tôm; kịp thời cung cấp thông tin về biến động thời tiết, giá cả, thị trường, tình hình xuất nhập khẩu các nước để người dân chủ động sản xuất, tránh thiệt hại.

Thanh Hòa
Nguồn: vnanet.vn

 

Tin mới nhất

T2,10/03/2025