Nuôi tôm chuyến biến tích cực nhờ ứng dụng sản phẩm sinh học

Nhờ phát triển, ứng dụng mạnh các sản phẩm sinh học, vấn đề dịch bệnh, việc lạm dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi tôm những năm gần đây đã có chuyển biến tích cực.

Theo ông Trần Công Khôi, Phó vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản (Tổng cục Thủy sản): Năm 2021, ngành nuôi tôm diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, theo kế hoạch sẽ có khoảng 740.000 – 750.000 ha tôm nuôi, sản lượng dự kiến đạt 950.000 tấn. Đến tháng 10/2021, đã có 740.000 ha tôm được nuôi, sản lượng ước đạt 760.000 tấn. Dự báo với đà tăng trưởng như hiện nay thì kết thúc năm nay, ngành nuôi tôm sẽ đạt được kế hoạch đề ra.

Cũng trong năm 2021, Bộ NN-PTNT ban hành kế hoạch số 1151/QĐ-BNN-TCTS về phê duyệt “Kế hoạch quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trong nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021 – 2025”. Theo đó sẽ có trên 400 điểm quan trắc đối với nuôi tôm.


Ông Trần Công Khôi, Phó Vụ trưởng vụ Nuôi trồng thủy sản (Tổng cục Thủy sản)

Chuyển biến tích cực nhờ lan tỏa sản phẩm sinh học

Ngành thủy sản cũng triển khai Quyết định số 434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Kế hoạch quốc gia phòng chống một số dịch bệnh nguy hiểm trên thủy sản nuôi, giai đoạn 2021 – 2030”. Ngoài ra, Cục Thú y cũng đã tổ chức rất nhiều điểm giám sát trên tôm nuôi…

Do đó, tỷ lệ dịch bệnh trên thủy sản thấp hơn so với năm 2020. Theo thống kê, hết tháng 10/2021, diện tích thủy sản bị thiệt hại do dịch bệnh và một số nguyên nhân khác là 18.000 ha (giảm rất nhiều so với 46.000 ha năm 2020).

Mặc dù vậy, ông Trần Công Khôi đánh giá: Ngành thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề như: Nuôi thâm canh đang phát triển mạnh mẽ (trên 100.000 ha), tuy nhiên quy hoạch chưa đảm bảo, các cơ sở nuôi còn manh mún, nhỏ lẻ, gây rất nhiều khó khăn cho công tác phòng chống dịch bệnh…

Cách đây 10 năm trở về trước, việc người dân sử dụng hóa chất, kháng sinh trong chăn nuôi tôm diễn ra rất phổ biến, nhất là sử dụng kháng sinh nguyên liệu. Tuy nhiên hiện nay, việc sử dụng kháng sinh nguyên liệu trong nuôi tôm cơ bản đã chấm dứt.

Nhờ ứng dụng rộng rãi các sản phẩm sinh học vào nuôi tôm, tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi những năm qua đã giảm mạnh

Việc sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm được hạn chế là do các chế phẩm sinh học (sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản) xuất hiện nhiều hơn, theo thống kê có khoảng 14.000 – 16.000 sản phẩm. Các chế phẩm này có tác động tích cực đến đất, nước… trong ao nuôi, giúp tôm phát triển tốt, giảm việc sử dụng kháng sinh.

Bên cạnh đó, theo quy định hiện nay, kháng sinh không được sử dụng trong nuôi tôm và phòng bệnh tôm, chỉ khi nào trị bệnh mới sử dụng và việc sử dụng phải được kê đơn. Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn những cá nhân chưa chuyển biến nhận thức, tiếp tục sử dụng nên vẫn có những lô hàng khi xuất khẩu bị trả về, đây là điều rất đáng tiếc.

Đối với việc quản lý chế phẩm sinh học sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, về quy định, theo Luật Thủy sản năm 2017, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản phải được sản xuất tại cơ sở có đủ điều kiện, sản phẩm trước khi được lưu thông phải được công bố hợp quy và được cập nhật trên cơ sở dữ liệu quản lý thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản do Tổng cục Thủy sản quản lý.

Hiện nay, chúng ta có khoảng 16.000 sản phẩm, theo quy định, các cơ sở sẽ công bố hợp quy, cập nhật thông tin lên cơ sở dữ liệu và tự chịu trách nhiệm về chất lượng, độ an toàn của sản phẩm. Cơ quan quản lý nhà nước chỉ đảm nhiệm hậu kiểm và xử lý theo quy định của pháp luật. Do đó, khuyến cáo người dân, để có được sản phẩm chất lượng, nên mua các sản phẩm có trong danh mục quy định, ở cơ sở uy tín.

Hiện nay, số lượng các sản phẩm sinh học trong nuôi thủy sản rất lớn, cần sự kiểm soát chặt hơn nữa về chất lượng. Ảnh: NNVN.

Tổng cục Thủy sản đã phân cấp và cùng các địa phương hướng dẫn, tuyên truyền cho doanh nghiệp, người dân các quy định trong quản lý các sản phẩm chế phẩm sinh học. Bên cạnh đó, có chế tài xử lý những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sản phẩm kém chất lượng, đào thải ra khỏi hệ thống, không để tình trạng lẫn lộn doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và không hiệu quả.

Ngoài ra, hiện nay, theo Nghị định 42/2019/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản, thì mức xử phạt rất cao. Đặc biệt, người sử dụng sản phẩm thức ăn, xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản không được phép sản xuất kinh doanh, không có trong danh mục cũng sẽ bị xử phạt. Do đó, trong thời gian tới, khi chúng ta áp dụng các quy định mới, nghề nuôi tôm sẽ đi vào ổn định.

Áp lực rất lớn cho ngành tôm

Hiện nay, Nhà nước, Chính Phủ, Bộ NN-PTNT đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nói chung, nuôi trồng thủy sản nói riêng ở ĐBSCL như: Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL. Chính phủ ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ NN-PTNT cũng ban hành quyết định số 3550/QĐ-BNN-TCTS phê duyệt đề án phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững vùng ĐBSCL đến năm 2030…

Hiện nay, áp lực cho ngành tôm là rất lớn để đạt được các mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra. Ảnh: NNVN.

Tuy nhiên, ngoài cơ chế chính sách, còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, cụ thể: Phát triển hệ thống giống, bên cạnh những giống chất lượng hiện có, ĐBSCL phải tiến tới phát triển những giống tiềm năng, đầu tư cơ sở vật chất cho sản xuất giống, đảm bảo chủ động được nguồn giống, nhất là các đối tượng nuôi chủ lực.

Về phát triển cơ sở hạ tầng, hiện nay hạ tầng nuôi trồng thủy sản vẫn dùng chung với hạ tầng sản xuất nông nghiệp. Do đó, cần sớm có giải pháp tách biệt hệ thống cấp thoát nước nuôi trồng thủy sản mới đảm bảo mầm bệnh không bị lây lan. Bên cạnh đó, tập trung phát triển khoa học công nghệ, đầu tư kinh phí tiến hành việc quan trắc môi trường phòng trị bệnh, việc này hiện nay đã làm tương đối tốt, tuy nhiên mật độ vẫn còn thưa…

Về vấn đề thị trường, trong Quyết định 79/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025 nêu rõ, chỉ tiêu tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm tôm đạt 10 tỷ USD (tăng trưởng bình quân đạt 12,7%/năm), trong đó giá trị kim ngạch tôm nước lợ xuất khẩu là 8,4 tỷ USD.

Tác giả: Trung Quân

Nguồn tin: Nông nghiệp Việt Nam

Như vậy, theo tính toán, đến năm 2025 cả nước phải có 1,2 triệu tấn tôm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu phục vụ cho xuất khẩu. Do đó, đây là một áp lực rất lớn cho ngành thủy sản, nếu không có những động thái tích cực thì sẽ rất đạt được kế hoạch đề ra.

Hiện số lượng cơ sở nuôi tôm của ĐBSCL rất lớn (hơn 400.000 cơ sở), do đó cần đẩy mạnh việc liên doanh, liên kết sản xuất theo chuỗi thì mới có thể phát triển bền vững.