Các giải pháp phòng chống hạn mặn, mùa khô năm 2023-2024 của ngành thủy sản

Theo nhận định của các cơ quan chuyên môn, tình hình xâm nhập mặn mùa khô năm 2023-2024 có khả năng xuất hiện sớm, sâu và kéo dài trên địa bàn tỉnh ở mức tương đương và cao hơn mùa khô năm 2015-2016, mặn bắt đầu xâm nhập trên các sông chính từ nửa cuối tháng 11-2023.

Chủ động thu hoạch thủy sản đạt kích cỡ thương phẩm trước khi xâm nhập mặn tăng cao

Để ứng phó kịp thời với hạn hán, xâm nhập mặn gây ra nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đối với hoạt động nuôi trồng thuỷ sản trong mùa khô năm 2023-2024, Chi cục Thủy sản đề nghị Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện phối hợp với các phòng, ban chuyên môn, UBND các xã, thị trấn, các đơn vị nghiệp vụ liên quan tập trung xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn lực và tổ chức triển khai các biện pháp phòng chống hạn hán, xâm nhập trên địa bàn.

Ngoài những giải pháp chung, các phòng, ban chuyên môn, UBND các xã, thị trấn tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn một số giải pháp kỹ thuật ứng phó với tình hình hạn hán, xâm nhập mặn, điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương để người nuôi áp dụng thực hiện.

Đối với nuôi tôm nước lợ: Tăng cường công tác quan trắc môi trường, cập nhật thông tin hạn hán, xâm nhập mặn để có giải pháp và kế hoạch sản xuất phù hợp; gia cố bờ, cống để tránh hiện tượng rò rỉ, thẩm lậu, có ao lắng đúng quy cách, thực hiện biện pháp an toàn sinh học trước khi thả giống và trong quá trình nuôi sử dụng chế phẩm sinh học xử lý nước để đảm bảo sức khỏe tôm nuôi và giữ môi trường bền vững, hạn chế mất nước và thay nước khi không cần thật cần thiết; phổ biến, hướng dẫn lựa chọn giống tôm có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm dịch và có chất lượng tốt; thực hiện ương giống trước khi thả nuôi thương phẩm; chỉ thả giống khi nhiệt độ nước dưới 300C (sáng sớm hoặc chiều mát); thả nuôi với mật độ hợp lý tùy theo từng hình thức nuôi.

Đối với nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh: duy trì mực nước trong ao tối thiểu 1,3 – 1,5m; nếu cần cấp bổ sung nước thì phải lấy nước từ ao lắng, xử lý trước khi cấp vào ao nuôi. Đồng thời chạy quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nhiệt độ, tăng cường oxy và không để thiếu oxy cục bộ. Duy trì các yếu tố môi trường hợp lý (độ mặn: 10 – 25%o; O2: >3mg/l; pH: 7,5 – 8,5; độ kiềm: 80 – 150mg/l). Cung cấp lượng thức ăn hợp lý theo kích cỡ và mật độ, giảm 15 – 30% lượng thức ăn trong những ngày nắng nóng; định kỳ 10 – 15 ngày/lần bổ sung vitamin C, các khoáng vi lượng, men tiêu hóa trộn vào thức ăn cho tôm, thời gian mỗi đợt từ 5  -7 ngày để tăng sức đề kháng, giúp tôm lột xác đồng loạt vànhanh cứng vỏ, từ 5 – 7ngày/lần sử dụng các loại chế phẩm để xử lý nước và đáy ao nuôi, lượng dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Đối với nuôi nghêu, sò nuôi trong bãi triều, tăng cường công tác quan trắc môi trường, cập nhật thông tin để có giải pháp và kế hoạch sản xuất phù hợp. Chỉ thả nuôi trong vùng có điều kiện môi trường thích hợp cho sinh trưởng và phát triển như: gần cửa sông, bằng phẳng, độ dốc thấp; thời gian phơi bãi không quá 4 – 5 giờ/ngày; độ mặn thích hợp từ 15 – 25%o. Thời gian từ tháng 0 1 – 3 âm lịch không nên thả giống nuôi. Không nên thả giống mật độ quá dày. Mật độ thả phù hợp từ 180 – 200 con/m2; cỡ giống nuôi 400 – 600 con/kg.

Theo dõi tình hình biến động của thời tiết và môi trường nước (nhiệt độ, độ mặn…), theo từng vùng, từng khu vực nhằm sớm phát hiện các biến động bất thường để có giải pháp phù hợp. Có biện pháp khai thông các vùng đọng nước để tránh hiện tượng đọng nước cục bộ, gây nhiệt độ tăng cao vào buổi trưa làm nghêu, sò chết.

Đối với nuôi thủy sản nước ngọt, nuôi lồng, bè” tăng cường công tác quan trắc môi trường, cập nhật thông tin để có giải pháp và kế hoạch sản xuất; chủ động lấy nước ngọt vào ao chứa để dự trữ, đồng thời có kế hoạch thả giống phù hợp, không nên thả giống vào thời điểm khô hạn và bị xâm nhập mặn tăng cao; theo dõi, quản lý môi trường ao nuôi chặt chẽ, đặc biệt là quản lý thức ăn, trong khẩu phần ăn cần bổ sung thêm các vitamin, khoáng chất… để tăng sức đề kháng; tăng cường sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm cải thiện chất lượng nước, đáy ao nuôi, góp phần hạn chế việc thay nước thường xuyên. Đối với cá tra nuôi khi độ mặn tăng > 8%o và duy duy trì lâu hơn 7 ngày thì hạn chế cho ăn, có kế hoạch tiến hành di dời cá nuôi chưa đạt kích cỡ thu hoạch đến vùng nuôi an toàn. Đối với cá lồng bè khi độ mặn tăng cao > 5%o và kéo dài 5 – 7 ngày thì di dời đến nơi có môi trường phù hợp và an toàn cho cá nuôi.

Chủ động thu hoạch thủy sản nuôi khi đạt kích cỡ thương phẩm, không chờ giá trước khi xâm nhập mặn tăng cao để hạn chế thiệt hại.

 Thái Hòa

Báo Đồng khởi